Vượt thác là tác phẩm về cuộc sống ở một làng quê ven sông Thu Bồn vào những ngày sau Cách mạng tháng Tám 1945. Để cảm nhận được vẻ hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ trong tác phẩm, mời các em cùng tham khảo tài liệu văn mẫu Phân tích tác phẩm Vượt thác - Võ Quảng được HOC247 biên soạn và tổng hợp dưới đây.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
2.1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Võ Quảng.
- Giới thiệu về văn bản “Vượt thác” (xuất xứ, tóm tắt, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật…).
2.2. Thân bài
a. Con thuyền qua đoạn sông phẳng lặng trước khi tới chân thác
- Cảnh dòng sông:
+ Cánh buồm nhỏ căng phồng, thuyền rẽ sóng lướt bon bon như đang nhớ núi rừng.
+ Những chiếc thuyền chất đầy cau tươi, dây mây, dầu rái, những chiếc thuyền chở mít, chở quế.
+ Thuyền nào cũng xuôi chầm chậm.
- Cảnh hai bên bờ:
+ Ở ngã ba sông, chung quanh là những bãi dâu trải ra bạt ngàn.
+ Càng về ngược, vườn tược càng um tùm.
+ Dọc sông, những chòm cây cổ thụ dáng mãnh liệt, đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước.
+ Núi cao.
=> Thiên nhiên đa dạng phong phú, giàu sức sống, vừa nguyên sơ vừa cổ kính.
b. Thuyền qua đoạn sông nhiều thác dữ
* Hoàn cảnh: thuyền đến Phường Rạnh, thuyền chuẩn bị vượt nhiều thác nước.
* Nhân vật dượng Hương Thư:
- Ngoại hình:
+ Cởi trần.
+ Như pho tượng đồng đúc.
+ Các bắp thịt cuồn cuộn.
+ Hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa.
- Hành động:
+ Co người phóng sào.
+ Thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt.
+ Ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh, hùng vĩ.
=> Đẹp, khỏe, dũng mãnh.
c. Thuyền khi đã đi qua thác dữ
- Con người: chú Hai vứt sào, ngồi xuống thở không ra hơi.
- Thiên nhiên:
+ Dòng sông chảy quanh co dọc những núi cao sừng sững.
+ Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp, nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước.
2.3. Kết bài
- Nội dung: Bài văn miêu tả cảnh vượt thác của con thuyền trên sông Thu Bồn, làm nổi bật vẻ hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ.
- Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, điểm nhìn trên con thuyền theo hành trình vượt thác rất tự nhiên, sinh động, trí tưởng tượng phong phú,….
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích tác phẩm Vượt thác
Gợi ý làm bài
3.1. Bài văn mẫu số 1
“Vượt thác” trích từ chương XI trong truyện “Quê nội”, một trong những tác phẩm thành công nhất của Võ Quảng. Truyện viết về cuộc sống ở một làng quê ven sông Thu Bồn (làng Hoà Phước), tỉnh Quảng Nam vào những ngày sau Cách mạng tháng Tám 1945 và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với đoạn trích này, tác giả đã làm nổi bật vẻ hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên nền cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ.
Tác giả miêu tả dòng sông Thu Bồn và quang cảnh hai bên bờ trong một cuộc vượt thác của con thuyền do dượng Hương Thư chỉ huy, từ làng Hoà Phước lên thượng nguồn để lấy gỗ về dựng trường học cho làng. Qua đó làm nổi bật vẻ hùng dũng và sức mạnh của con người lao động trên cái nền là khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Nghệ thuật tả cảnh, tả người xuất phát từ điểm nhìn trên con thuyền theo hành trình vượt thác nên rất tự nhiên, sinh động. Cuộc hành trình được kể lại theo trình tự thời gian. Con thuyền qua đoạn sông phẳng lặng trước khi đến chân thác, ngược dòng sông từ bến làng Hoà Phước, qua đoạn sông êm ả ở vùng đồng bằng, rồi vượt đoạn sông có nhiều thác ghềnh ở vùng núi, sau cùng lên tới khúc sông khá phẳng lặng không còn thác dữ.
Có thể coi bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong bài văn này là một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Đứng trên con thuyền, tác giả ngắm bầu trời và dòng sông, trong lòng trào lên một cảm xúc mãnh liệt. Hơi văn cuồn cuộn như con thuyền lướt sóng: “Cánh buồm nhỏ căng phồng. Thuyền rẽ sóng lướt bon bon như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp”.
Đoạn sông ở vùng đồng bằng thật êm đềm, hiền hoà thơ mộng, thuyền bè tấp nập. Hai bên bờ là những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít. Là miền quê trù phú: “Thỉnh thoảng chúng tôi gặp những thuyền chất đầy cau tươi, dây mây, dầu rái, những thuyền chở mít, chở quế. Thuyền nào cũng xuôi chậm chậm. Càng về ngược, vườn tược càng um tùm...”.
Đến đoạn nhiều thác ghềnh thì cảnh vật hai bên bờ sông cũng thay đổi: “Những chòm cổ thụ đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước, rồi núi cao đột ngột hiện ra như chắn ngang trước mặt”. Ở đoạn sông có nhiều thác dữ, tác giả đặc tả hình ảnh dòng nước: “Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn. Dòng chảy dữ dội đã được tác giả miêu tả thật ấn tượng”.
Giữa khung cảnh hoang dã và dữ dội ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp, thật khoẻ. Sự hiểm trở hiện lên qua việc miêu tả những động tác dũng mãnh của dượng Hương Thư và mọi người khi chống thuyền vượt thác: “Dượng Hương Thư đánh trân đứng sau lái co người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng "xoạc"! Thép đã cấm vào sỏi! Dượng Hương ghì chặt trên đầu sào, lấy thế trụ lại, giúp cho chú Hai và thằng Cù Lao phóng sào xuống nước. Chiếc sào của dượng Hương dưới sức chống bị cong lại. Nước bị cản văng bọt tứ tung, thuyền vùng vằng cứ chực trụt xuống, quay đầu chạy về lại Hòa Phước”.
Điều đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả ở đoạn này là sự phối hợp miêu tả cảnh vật thiên nhiên với hoạt động của con người đưa thuyền ngược dòng, vượt thác. Cảnh thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ và phong phú. Trung tâm của bức tranh là hình ảnh con người mà nổi bật là vẻ rắn rỏi, dũng mãnh của dượng Hương Thư: “Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt. Thuyền cố lẩn lên. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”.
Nhân vật dượng Hương Thư được tác giả tập trung khắc hoạ nổi bật trong cuộc vượt thác. Dượng Hương Thư vừa là người đứng mũi chịu sào quả cảm lại vừa là người chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Tác giả tập trung miêu tả các động tác, tư thế và ngoại hình nhân vật này với nhiều hình ảnh so sánh vừa khái quát vừa gợi cảm. So sánh như một pho tượng đồng đúc thể hiện ngoại hình gân guốc, vững chắc của nhân vật. Còn so sánh giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ lại thể hiện vẻ dũng mãnh, tư thế hào hùng của con người trước thiên nhiên. Tác giả còn so sánh hình ảnh dượng Hương Thư khi vượt thác khác hẳn với hình ảnh của dượng lúc ở nhà để càng làm nổi bật vẻ đẹp khỏe khoắn, kiên cường của nhân vật.
Hình ảnh dòng sông vẫn chảy quanh co giữa những núi cao nhưng đã bớt hiểm trở và đột ngột mở ra một vùng ruộng đồng khá bằng phẳng như để chào đón con người sau cuộc vượt thác thắng lợi. Ở đoạn đầu, khi con thuyền đã qua đoạn sông êm ả, sắp đến khúc sông có nhiều ghềnh thác thì phong cảnh hai bờ cũng đổi khác và những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước vừa như báo trước về một khúc sông dữ hiểm, vừa như mách bảo con người dồn nén sức mạnh chuẩn bị vượt thác. Còn ở đoạn cuối, hình ảnh những chòm cổ thụ lại hiện ra trên bờ khi con thuyền đã vượt qua nhiều thác dữ, thì lại mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước. Nghệ thuật so sánh làm nổi bật sự tương phản trong nét đẹp của thiên nhiên và biểu hiện được tâm trạng hào hứng, phấn chấn của con người vừa vượt qua được những thác ghềnh nguy hiểm, tiếp tục đưa con thuyền tiến lên phía trước.
Bài văn miêu tả dòng sông Thu Bồn và cảnh quan hai bên bờ theo hành trình của con thuyền qua những vùng địa hình khác nhau nhưng tập trung nhiều nhất vào cảnh vượt thác. Qua đó tác giả làm nổi bật hình ảnh của con người lao động trên cái nền là khung cảnh sông núi miền Trung hùng vĩ và nên thơ.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Võ Quảng sinh năm 1920, quê ở tỉnh Quảng Nam, là nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Bài “Vượt thác” trích từ chương XI của truyện “Quê nội” (1974). Tên bài văn do người biên soạn đặt. Truyện viết về cuộc sống ở một làng quê ven sông Thu Bồn (làng Hòa Phước) tỉnh Quảng Nam, miền Trung Trung Bộ vào những ngày sau Cách mạng tháng Tám 1945 và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hai câu văn mở đầu xác định điểm cuối nguồn bắt đầu về thượng nguồn của dòng sông, cũng là hai câu giới thiệu kinh nghiệm đầu của nghề lái đò: “Thuyền về ngược thì nhờ hướng gió, về xuôi thì nương theo dòng chảy của sông”. Dượng Hương Thư - nhân vật chính trong đoạn văn này có thừa kinh nghiệm ấy. Bởi vậy, “gió nồm vừa thổi”, gió đông nam thổi từ biển vào đất liền là dượng đã nhổ sào, giương cánh buồm nhỏ đón gió cho: “Thuyền rẽ sóng lướt bon bon núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp”. Câu văn so sánh bằng phép nhân hóa thể hiện thuyền cùng người nhớ quê, đồng thời giới thiệu khoảng đường sông xa mà người và thuyền phải vượt qua.
Những đoạn vàn còn lại, Võ Quảng tả cảnh làng xóm hai bên bờ sông, cùng với dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao vượt thác. Đó là cảnh ngã ba sông với “những bãi đậu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít” là cảnh lâu lâu lại gặp những thuyền xuôi theo con nước chở “đầy cau tươi, dây mây, dầu rái, những thuyền chở nút, chở quế”. Câu văn giới thiệu giao thông đường thủy vừa giới thiệu sản phẩm của vùng quê miền núi Quảng Nam. Trái cây vườn thì có cau tươi, mít, dây mây, dầu rái, quế là quà tặng của núi rừng. Đấy là nguồn lợi về kinh tế. Rồi “những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước. Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngang trước mặt”. Câu văn nhân hóa khiến tâm hồn người đọc lắng lại. Câu văn so sánh khiến người đọc ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ của núi sông. Cả hai hình ảnh như là dấu hiệu của tự nhiên báo trước chặng đường khó khăn: “Thuyền chuẩn bị vượt nhiều thác nước”.
Hai đoạn văn kế tiếp, Võ Quảng tập trung viết về dượng Hương Thư và chuyên vượt thác cổ Cò. Mô tả ngọn thác này nhà văn viết: “Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn”. Hình ảnh so sánh ấy biểu thị mức độ nguy hiểm của dòng thác. Dòng nước chảy “đứt đuôi rắn” kia cho thấy dòng thác giữa hai vách đá dựng đứng đang trườn trên đá có mỏm nhô ra khiến dòng nước gãy khúc.
Nguy hiểm ở khúc gãy này chờ đợi người vượt thác, lúc này là dượng Hương Thư “như một pho tượng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn”. Sự so sánh ấy làm nổi bật sức dẻo dai của người thường xuyên sống cùng sông nước, nắng gió. về tính tình thì “dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ”. Nhưng khi vượt thác thì hoàn toàn khác hẳn. Trước hết, dượng là người nhận ra mức độ chết người khi vượt thác. Bởi vậy, bao nhiêu kinh nghiệm đều được dượng đưa ra. Từ việc chuẩn bị bữa cơm trước khi vượt thác cho chắc bụng. Có chuẩn bị như thế mới có sức khỏe đế “có khi suốt buổi phải chống liền tay không phút hở”. Đó là cách tối ưu để bảo vệ mạng sống con người và của cải có trên thuyền. Rồi chuyện vượt thác bắt đầu. Những hình ảnh sống động của dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao vào trang văn. “Dượng Hương Thư đánh trần đứng sau lái có người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng xoạc”. Tiếp theo là những hình ảnh như tuôn trào sức mạnh cơ thế của dượng tập trung “ghì chặt trên đầu sào” để lấy thế cho thuyền không bị sức mạnh của dòng nước tống lui, giúp cho chú Hai và thằng Cù Lao phóng sào xuống đẩy thuyền đi tới. Vậy mà chiếc sào “bị cong lại”, còn chiếc thuyền thì “vùng vầng cứ chực tụt xuống”. Cái mặt, cái đôi mắt của dượng Hương Thư bị biến dạng khi “hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ”.
Cuộc chiến giữa con người và thác dữ không chỉ trong chốc lát. Mô tả một lần phóng sào, răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra... cũng là miêu tả nhiều lần. Mỗi lần thuyền nhích lên được một khoảng ngắn là mỗi lần phái dồn sức như thế và dượng Hương Thư xứng đáng là “một hiệp sĩ’ trước thiên nhiên “oai linh hùng vĩ” như rặng Trường Sơn. Cả ba người, nhất là dượng Hương Thư, phải chiến đấu dũng cảm, dai dẳng như thế, phải “thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt” như thế “cho đến chiều tối, thuyền vượt qua khỏi thác Cổ Cò”. Thế là đã qua chặng đường nguy hiểm, con người đã vượt được thác để tiến về phía trước, để đạt đến mục đích. Đoạn văn mang hơi thở của người vượt thác, còn bây giờ thì “dòng sông cứ chảy quanh co”. Núi cao sừng sững vẫn còn đó nhưng sông nước thì đã hiền hòa. “Dọc sườn núi, những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô đám con cháu tiến về phía trước”, một hình ảnh so sánh để nhân hóa những cây đa cây đề sông núi như bóng dáng các thế hệ tiền tố hỗ trợ chí khí cho thế hệ đời sau vượt qua mọi gian khó trong đời sống chí nhân, trong sự nghiệp dựng nước và bảo vệ đất nước. Nhịp văn, từ ngữ trong đoạn văn cuối bài dịu lại như chú Hai thở không ra hơi đang trở lại trạng thái thoải mái và cũng như dòng sông chảy “qua nhiều lớp núi, đồng ruộng lại mở ra”
Nghệ thuật nhân hóa và so sánh đã làm tăng sức hấp dẫn và ý nghĩa nội dung của chuyến vượt thác đơn thuần. Người đọc cảm nhận phía sau những dòng văn miêu tả ấy không chỉ có nét đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, ý chí vượt khó của con người mà còn có cả quà tặng của núi rừng Trường Sơn cho những con người đã cùng gắn bó.
----------Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----------
Tài liệu liên quan
Tư liệu nổi bật tuần
-
Phân tích 9 câu thơ đầu bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
27/06/2024125 - Xem thêm