Dưới đây là tài liệu Phân tích tư tưởng đất nước nhân dân trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân trong bài thơ Đất nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã được tác giả chứng minh qua nội dung bài thơ như một sự thống nhất các yếu tố lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục, sự gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, giữa thế hệ này với thế hệ khác qua tư tưởng cốt lõi Đất Nước của Nhân dân. Mời các em cùng tham khảo:
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm Đất nước.
- Giới thiệu về vấn đề cần phân tích: tư tưởng Đất nước của nhân dân.
b. Thân bài:
b1. Quan điểm đất nước qua mỗi thời đại:
- Thời trung đại: đất nước là của vua, lãnh thổ gắn với quyền cai trị của vua.
- Thời cận đại: “Dân là dân nước, nước là nước dân” (Phan Bội Châu), nhưng còn mang nặng tư tưởng phong kiến phương Đông và hệ tư tưởng tư sản.
- Thời hiện đại: Đất nước của đại đa số quần chúng nhân dân.
b2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân:
* Đất nước của nhân dân được thể hiện ở chiều rộng lãnh thổ.
- Không gian thân thương gắn với những kỉ niệm của tình yêu đôi lứa:
“Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn”
- Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở...”
* Đất nước của nhân dân được thể hiện ở chiều dài của lịch sử:
- Đất nước được làm nên bởi những con người bình dị vô danh nhưng lại hết sức lớn lao phi thường.
- Những con người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu:
+ “hạt lúa”: là biểu tượng của những giá trị vật chất và biểu tượng của nền văn minh lúa nước.
+ truyền lửa”: ngọn lửa của văn minh, của nhiệt tình cách mạng và của lòng yêu nước và niềm tin.
+ “giọng nói”: là ngôn ngữ của một dân tộc, là linh hồn, sự tồn tại của một quốc gia, giá trị tinh thần quý giá.
* Đất nước của nhân dân được thể hiện trong chiều sâu văn hóa:
- Những truyền thống lâu đời:
+ tục ăn trầu của bà.
+ thói quen bới tóc của mẹ.
+ say đắm và thủy chung trong tình yêu.
+ biết quý trọng nghĩa tình.
+ quyết liệt với kẻ thù.
b3. Nghệ thuật:
- Giọng điệu thủ thỉ tâm tình.
- Những hình ảnh quen thuộc gần gũi.
- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ca dao, tục ngữ, hình ảnh…
c. Kết bài: Tư tưởng đất nước của nhân dân thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích tư tưởng đất nước nhân dân trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài văn mẫu 1:
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm xuất sắc, mang vẻ đẹp độc đáo của ông, được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài “Đất Nước” là chương V của trường ca này. Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo các chất liệu – thi liệu từ tục ngữ, ca dao dân ca, từ truyền thuyết cổ tích đến phong tục, ngôn ngữ… của nền văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có nguồn gốc lâu đời, một Đất Nước của Nhân Dân vĩnh hằng muôn thuở.
Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài “Đất Nước” đã ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng đến 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm:
Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc cặp vợ chồng yêu nhau mà đã “góp cho”, đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”.
Núi Vọng Phu Ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp lên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.
Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng" đã để lại cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay, 99 núi con Voi Ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi qua còn… để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một cách bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thức trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.
Rồng “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng để ca ngợi sự gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa?
Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… có núi Ân sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên"
Nghèo mà vẫn “góp cho” Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp tên” đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, săn hổ… làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”:
“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn Đất Nước cùng Nhân dân. Các thi liệu – hình ảnh: người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò nghèo, con cóc con gà, những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng, đức tính cần cù và tinh thần dũng cảm,… của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”,… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho, góp nên…) nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn.
Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính luận kết hợp một cách hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...”
Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh của quê hương Đất Nước. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi… bất cứ ở đâu trên Đất Nước Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Hình tượng Đất Nước cũng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta, tổ tiên ta bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, kết hợp từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm, tự hào về cảm xúc. Vừa đĩnh đạc hào hùng, vừa thiết tha lắng đọng. Vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ.
Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài “Đất Nước”. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất chữ tình, chất cảm xúc hòa quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất Nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo.
Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Bài thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về Đất Nước và Nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân thương, ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.
Bài văn mẫu 2:
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa những xúc cảm nồng nàn và chất suy tư sâu lắng của người trí thức vì Đất Nước, vì con người. “Đất Nước” trích trong chương 5 trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú hơn, tươi mới hơn tư tưởng ấy bằng tiếng nói riêng và cách thể hiện độc đáo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân, của ca dao thần thoại chính là mạch nguồn xuyên suốt tác phẩm.
Đất Nước vốn là hình tượng trữ tình rất đẹp trong thi ca xưa nay. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn văn học tương ứng với mỗi thời kỳ lịch sử lại mang tư tưởng riêng với lấp lánh màu sắc thẩm mỹ riêng. Thời trung đại, người ta vốn cho rằng quan niệm Đất Nước gắn liền với công lao của các triều đại và cũng do các triều đại kế tiếp nhau để gây dựng lên. Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng về Đất Nước đã có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân”. Nhưng dẫu sao, tư tưởng đó vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản. Đến thơ ca Việt Nam thời kì 1945-1975 thì tư tưởng Đất Nước nhân dân được thế hệ các nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, tôi – ta. Ở đó có sự hòa quyện và tỏa sáng của tình yêu Đất Nước và tình yêu đôi lứa. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện đặc sắc và thành công:
“Ôi Đất Nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Đất Nước, Nguyễn Đình Thi)
Ở thời hiện đại, khi người ta nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, thì mới cho rằng Đất Nước vốn là của nhân dân. Điều này cũng đã được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn hết khi dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại.
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong tác phẩm của mình bằng chất liệu phù hợp: chất liệu văn hóa dân gian. Có thể thấy, viết về tư tưởng Đất Nước của nhân dân thì không có chất liệu nào phù hợp với là văn hóa dân gian. Do vậy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách phong phú và đa dạng vốn văn hóa dân gian giàu có của Đất Nước ta để tạo nên tác phẩm này.
Cả bài thơ như được sáng tạo nên từ những gì quen thuộc nhất của nền văn hóa dân gian lâu đời của người dân Việt Nam. Hàng loạt những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca, hàng loạt những truyện cổ, những phong tục tập quán, những địa phương trên khắp núi sống nước ta đã được huy động và gửi gắm trong bài thơ này. Những chất liệu này đã được nhào nặn bằng một cảm xúc rất mới qua một tâm hồn đa cảm khiến cho những câu thơ vừa mang vẻ đẹp hiện đại lại thấm đẫm chất liệu dân gian truyền thống.
Được viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ xâm lược, bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm dường như là một sự nhận thức lại về một vấn đề đã trở nên quen thuộc: vấn đề Đất Nước. Đất Nước được hình thành như thế nào? Đất Nước của ai, Đất Nước trong đời sống hàng ngày hiện lên ra sao? Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nghiền ngẫm để trả lời những câu hỏi ấy. Vì thế mà ông đã có những khám phá vừa dung dị đời thường lại vô cùng sâu sắc và tinh tế. Đó là sự khám phá trên những bình diện như bề rộng không gian, chiều dài lịch sử và bề rộng văn hóa.
Đất Nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
…
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất Nước trở thành sự sống máu thịt vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người tuy chỉ có một phần nhưng đó là linh hồn là sự sống của Đất Nước. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tác giả đã có cái nhìn thật mới mẻ về vẻ đẹp của Đất Nước, Tổ Quốc gắn với những con người bình dị vô danh.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Đoạn trích có cái nhìn rất sâu về bốn nghìn năm trong quá trình dựng xây Đất Nước. Tuy nhiên, đó không phải là thời gian lịch sử xác định mà là thứ tác giả ảo diệu mơ hồ “ngày xửa, ngày xưa” gắn với sự trường tồn của Đất Nước cũng như là sức sống mãnh liệt của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định lại sự oanh liệt của các triều đại như Nguyễn Trãi đã từng viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập…”. Ta bỗng nhớ đến những vần thơ của Chế Lan Viên
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, Đất Nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng…”
Cứ thế, tư tưởng Đất Nước của nhân dân còn là hình ảnh về Đất Nước lớn lên trong tình yêu, trong phạm vi đôi lứa lẫn cộng đồng. Tư duy của Nguyễn Khoa Điềm cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành và mở mang của Đất Nước.
Song song với quá trình hình thành đất và nước để tạo thành địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua là sự sinh sôi của các địa danh. Đằng sau mỗi tên đất, tên rừng, tên sông là mỗi một cuộc đời, mỗi một kì tích, một huyền thoại. Nhà thơ đã dựng lên cả diện mạo non sông chỉ qua những câu thơ bình dị với sự xuất hiện của những địa danh nổi bật. Mỗi địa danh ấy đều làm rung động trong tâm linh của con người: Đó là hình ảnh về núi bút non nghiên, hòn trống mái, vọng phu, đó là vịnh Hạ Long, bà đen, bà Điểm….Mỗi địa danh đều là cuộc đời. Mỗi cuộc đời lại như hóa thân thành sông núi. Điều đó đã cho thấy chính nhân dân đã gây dựng, đã mở mang và gìn giữ Đất Nước này.
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân không chỉ là một Đất Nước cần có lãnh thổ, mà còn phải có bề dày lịch sử. Theo dòng lịch sử, nhà thơ đã ghi lại những chiến công, những tên tuổi hiển hách vang dội. Họ là những con người lớn lên từ Đất Nước, cầm tay ngọn đuốc sự sống của dân tộc Việt.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----
Tài liệu liên quan
Tư liệu nổi bật tuần
-
Phân tích 9 câu thơ đầu bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
27/06/2024125 - Xem thêm