OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
YOMEDIA
Banner-Video
IN_IMAGE

Vai trò của Lý Công Uẩn sau khi thành lập nhà Lý?

Vai trò của Lý Công Uẩn sau khi thành lập nhà Lý.

Nhanh giúp mình nhé! Cảm ơn bạn nhiều.

  bởi thu hằng 23/10/2018
ADSENSE/lession_isads=0
QUẢNG CÁO
 

Câu trả lời (2)

  • Năm 1010, lý công uẩn lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho một thời đại văn minh cường thịnh ở Việt Nam, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren, sau khi lên ngôi ông tiến hành cải cách trên mọi lĩnh vực, trong đó có cải cách hành chính nhà nước.

    – Về cơ cấu tổ chức hành chính:

    + Vua Lý Thái Tổ chăm lo xây dựng kinh thành, chỉnh đốn lại việc cai trị đất nước.

    + Đầu năm 1011, nhà Lý đổi pháp cũ của nhà Tiền Lê làm 24 lộ, đất nước gồm có các cấp hành chính sau: lộ – phủ, huyện, hương – giáp, và cuối cùng là thôn. Lại đặt thêm đạo như đạo Hải Đông, đạo Tuyên Quang, trại Ái Châu, trại Hoan Châu. Và một số châu, trại được đặt làm phủ, như: phủ Trường An, phủ Thiên Đức, Phủ Thanh Hóa.

    + Về hành pháp, đứng đầu triều đình là vua, rồi đến các quan cao cấp; về văn và võ chia làm chính phẩm cấp, và một số cơ quan chuyên trách.

    + Bộ máy hành chính được thiết lập từ trung ương đến các đơn vị cơ sở. Khu vực hành chính gồm có các bộ và phủ rồi đến huyện và cuối cùng là hương, giáp…

    + Lý công uẩn tập trung xây dựng nền hành chính thống nhất từ trung ương đến địa phương, tập trung quyền lực triều đình, đứng đầu là vua. Vua là người nắm quyền hành cao nhất về mọi mặt cả; kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo,. Vua được coi là hiện thân của sứ giả ” thể hiện hành đạo”. Mọi tín ngưỡng tôn giáo, thánh thần đều phải đặt dưới quyền vua, vua phong thần cho nhiên thần hay nhân thần, vua ban hành chức sắc tôn giáo…

    + “Để giúp vua nhăm mọi mặt chính trị, quân sự nhà Lý đặt thêm trung thư sảnh (với các chức trung thu thị lang) và Khu mật sứ ( với các chức tả hữu Khu mật sứ) . Cùng bàn việc với tể tướng có tả hữu tham tri chính sự.

    + Trông coi về việc đàn hặc, giám sát quan lại, có ngự sử đài với các chức tả hữu giám ngự đại phu. Giúp việc tể tướng còn có chức hành khiển đồng trung thư môn hạ hình chương sự. Dưới có thượng thư sảnh với các chức thượng thư sảnh viên ngoại lang. Chức đình úy trông coi việc hình án, chứ đô hộ phủ sĩ sư chuyên xét sử các án còn nghi ngờ.

    + Trông coi các việc trong triều đình còn có nội thị sảnh. Giúp việc soạn các lời chiếu, chế của vua, có Hàn lâm học sĩ”

    + Về ngoại giao: cử người sang trung quốc cầu phong để hòa hảo, nhận sắc phong làm Nam Bình Vương.

    + Củng cố xây dựng chính quyền trung ương: đắp thành, lập nhiều cung điện, sửa sang phủ và phố, lập cung Long Đức ở ngoài thành cho thái tử để có thể hiểu, thân dân.

    + Chính sách quan lại: đưa ra 9 bậc phẩm trật cho cả quan văn và quan võ.

    + Chế độ tuyển cử quan lại: được thực hiên cẩn thận, sau tuyển cử trong hoàng tộc rồi đến con cái quan lại.

    + Bộ máy hành chính ở địa phương: chia làm 2 ban văn võ, có 24 phủ lộ.

    + Hệ thống tăng quan: là những người nhà vua quản lý hành chính các tăng đồ và thực sự là những người có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi phật giáo, phật giáo phát triển mạnh.

    + Chính sách quân đội: coi trọng chính sách quân đội, coi đây là vấn đề then chốt để bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước, quân đội được tổ chức chặt chẽ bao gồm quân cấm vệ và quân địa phương.

    + Áp dụng chính sách ngụ binh ư nông.

    + Về kinh tế: thực hiện tiết kiệm, bỏ trò chơi tốn kém chỉ thực hiện yến tiệc, thường ra lệ miễn thuế cho dân.

    + KHuyến khích nghề nông phát triển, chú trọng phát triển nghề thủ công.

    + Chính sách với dân tộc thiểu số miền núi: cố gắng xây dựng chính quyền tập trung từ trung ương đến địa phương, thực hiện chính sách ràng buộc Ki Mi.

    Với chính sách đúng đắn dưới thời cai trị của mình, lý công uẩn đã góp phần xây dựng vương triều LÝ hùng mạnh, mở ra một kỉ nguyên văn minh Đại Việt. Đó là thời kì cả dân tộc vươn lên mạnh mẽ trong xây dựng lại đất nước sau hơn nghìn năm bắc thuộc và sau giai đoạn chuẩn bị đời Ngô, Đinh, Tiền Lê, thực hiện thành công một cuộc phục hưng dân tộc lớn lao. Nước Đại Việt nhanh chóng trở thành quốc gia độc lập, thống nhất và văn minh, thịnh đạt ở đông nam á.

      bởi LÊ THỊ LAN HƯƠNG 23/10/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn (974 – 1028), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Hậu Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì 20 năm, từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028. Ông sinh năm 974, là người ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Chính sử chép, mẹ ông người họ Phạm mà theo truyền thuyết ở làng Dương Lôi (Tiên Sơn, Bắc Ninh) là Phạm Thị Ngà. Chính sử chép, khi mẹ ông "đi chơi chùa Tiêu Sơn, cùng với người thần giao hợp rồi có chửa". Đó là sự mang thai thần kỳ mà người con sinh ra chỉ biết mẹ, không biết cha. Khi lên ba tuổi, mẹ ông đem ông cho sư Lý Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp làm con nuôi (vì thế ông mang họ Lý) và được đặt tên là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn đi tu từ đó. Theo sử sách, ông là người khoan thứ nhân từ, có lượng đế vương. Ông đã được sư Vạn Hạnh ở chùa Lục Tổ (còn gọi là chùa Cổ Pháp) khen: "Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ". Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư viết: “Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương....” Điềm lành mà Ngô Sĩ Liên nhắc đến là những truyền thuyết, sấm ký... như chó trắng ở hương Cổ Pháp trên lưng có chữ "Thiên tử" lông đen ứng với điềm vua sinh năm Giáp Tuất (974), lên ngôi vua đặt niên hiệu cũng vào năm Canh Tuất (1010); cây gạo ở hương Diên Uẩn (tên cổ của Cổ Pháp) bị sét đánh để lại vết thành bài sấm báo hiệu nhà Lý thay nhà Lê; cây đa chùa Song Lâm có vết sâu ăn hình chữ "Quốc"; quanh mộ cha Lý Công Uẩn ban đêm có tiếng tụng kinh và ngâm thơ báo trước việc họ Lý làm vua ... Tất cả những điềm lạ và lời sấm đó đều được sư Vạn Hạnh giải thích là báo hiệu nhà Lý sẽ thay thế nhà Lê. Sau khi lên ngôi vua, cuối năm 1009, ông đã truy phong mẹ làm Minh Đức Thái hậu, cha làm Hiển Khánh Vương cùng với anh làm Vũ Uy Vương, em làm Dực Thánh Vương, chú làm Vũ Đạo Vương và năm 1018 truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy. Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi nhận các sự kiện này. Năm 1026 nhà vua sai làm Ngọc Điệp, tiếc rằng gia phả hoàng tộc nhà Lý hiện không còn. Lý Thái Tổ là một vị vua hiền từ, rất lo cho dân. Với cương vị Hoàng đế sáng lập vương triều, nhà vua trước hết lo xây dựng vương triều, củng cố chính quyền trung ương. Bộ máy hành chính được xây dựng có quy củ, cả nước chia làm 24 lộ, các thế lực cát cứ địa phương bị dẹp yên. Nhà vua đặc biệt chăm lo xây dựng cơ sở xã hội, chính trị, tư tưởng cho vương triều. Lý Công Uẩn thi hành chính sách "thân dân", năm 1013 định lại các lệ thuế, từ thuế ruộng đất, ao hồ đến thuế bãi dâu, các thuế sản vật... ông nhiều năm xá thuế cho dân như năm 1016 xá tô thuế 3 năm, năm sau, năm 1017 lại xá tô ruộng.... Dưới triều ông, triều đình trung ương được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh tan. Trong lịch sử dân tộc, Lý Thái Tổ đã làm nên một việc lớn , tạo dựng một mốc son lịch sử- đó là quyết định dời đô về Thăng Long. Lúc bấy giờ, thấy đất Hoa Lư, cố đô của Đại Cồ Việt chật hẹp, không thể mở mang ra làm chỗ đô hội nên ông có ý định dời đô về thành Đại La (hay La Thành - Hà Nội ngày nay). Quyết định rời bỏ hẳn một kinh đô từ vùng núi non hiểm trở ra vùng đồng bằng có thể cho thấy bản lĩnh và tầm nhìn của vị hoàng đế khai sáng ra triều Lý. Trong Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu), Lý Thái Tổ khẳng định làm thế không phải theo ý riêng mà để mưu việc lớn, thấy thuận tiện thì thay đổi. Cũng trong Chiếu dời đô, ông còn viết, Thăng Long là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi nhận: Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng. Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, ông lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành, và cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ. Việc định đô ở Thăng Long vào năm 1010 của Lý Thái Tổ là cột mốc lớn mở đầu lịch sử Thăng Long - Hà Nội, đánh dấu bước ngoặt của lịch sử đất nước. Vua Lý Thái Tổ được chính sử đánh giá là "khoan thứ, nhân từ, tinh tế, hòa nhã, có lượng đế vương". Nhà vua vốn xuất thân Phật giáo, nhờ thế lực giới Phật giáo mà lên ngôi vua nên rất tôn sùng Đạo Phật và lấy tôn giáo này làm chỗ dựa tinh thần cho vương triều. Trong 20 năm trị vì, Lý Thái Tổ cho xây dựng và tu sửa nhiều chùa, đúc nhiều chuông ở kinh thành và các nơi, một lúc độ hàng nghìn người làm tăng đạo. Lý Thái Tổ đã đặt cơ sở và định hướng ban đầu nhưng rất căn bản cho sự tồn tại của vương triều và sự phát triển của đất nước. Theo Đại Việt sử lược, năm Mậu Thìn 1028 (tức năm Thuận Thiên thứ 9), sức khỏe nhà vua không được tốt. Ông qua đời ở điện Long An vào ngày Mậu Tuất, hưởng thọ 55 tuổi. Ông được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế. Sau Lý Thái Tổ, triều Lý truyền được 8 đời cho đến Lý Chiêu Hoàng và kết thúc năm 1226 để nhường chỗ cho vương triều Trần (1226-1400). So với triều Ngô (939- 965) 27 năm, triều Đinh (968- 980) 13 năm, Tiền Lê (980-1009) 30 năm, thì triều Lý là vương triều tồn tại lâu dài đầu tiên sau khi giành lại độc lập. Trong thời thịnh đạt của vương triều, nhà Lý có nhiều cống hiến lớn lao đối với đất nước, tạo nên vị thế quan trọng trong lịch sử dân tộc. Để tưởng nhớ nơi Lý Thái Tổ lên ngôi vua, ngày 7/7 năm 2000, TP Hà Nội và tỉnh Ninh Bình tiến hành xây dựng công trình Nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ tại khu di tích cố đô Hoa Lư. Nhà bia được xây dựng trên khu đất giáp sông Sào Khê, phía trước đền thờ vua Đinh, vua Lê. Khu vực này có thể là một trong những bến thuyền thuộc kinh thành Hoa Lư - thế kỷ X, một trong những địa điểm xuất phát dời đô của vua Lý Thái Tổ. Nhà bia được khánh thành ngày 29/9/2000, đúng vào dịp kỷ niệm 990 năm Hoa Lư – Thăng Long – Hà Nội. Nhiều tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Huế, TPHCM, Đà Nẵng… lấy tên ông đặt cho một số đường phố. Tại Hà Nội và Bắc Ninh dựng tượng đài ông. Nhiều bộ phim về Lý Công Uẩn với quy mô lớn như: Chiếu dời đô; Lý Công Uẩn - Đường tới thành Thăng Long; Người con của rồng... đã và đang được gấp rút hoàn thành vào dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

      bởi H Yziang 25/10/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
 

Các câu hỏi mới

NONE
OFF