Văn bản Chí Phèo của Nam Cao đã tố cáo xã hội phong kiến bất công khiến con người sinh ra là người mà lại không được làm người. Thông qua đó nhấn mạnh hình ảnh và bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng họ đã bị xã hội tàn bạo cướp đoạt tất cả. Để hiểu hơn về văn bản này, Học247 mời các em cùng tham khảo tài liệu Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở dưới đây nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài soạn văn Chí Phèo.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo
- Đưa ra vấn đề: Khi gặp được Thị Nở cũng là một dấu ấn sâu sắc trong tâm trí của Chí Phèo
b. Thân bài:
* Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
- Hoàn cảnh gặp gỡ:
+ Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên “hắn” rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu
+ Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về
+ Hắn gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà (Thị Nở)
+ Trong cơn say, Chí Phèo ăn nằm với Thị Nở và ngủ say dưới trăng
⇒ Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo
* Quá trình hồi sinh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở:
- Sự thức tỉnh: Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
+ Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”
+ Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
+ Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”
+ Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ đây là dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất
+ Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
+ Hắn đủ tỉnh để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc
⇒ Cuộc gặp với Thị Nở đã giúp Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên
- Là niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về làm người lương thiện của mình
+ Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
+ Khi thấy bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt” ⇒ xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc
+ Thấy Thị Nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn
+ Hắn muốn làm nũng với Thị, thấy lòng thành trẻ con
+ Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về
+ Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”
⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy
c. Kết bài:
- Tóm tắt lại diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở
- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về diễn biến đó.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy viết một bài văn ngắn phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ. Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm động trước quá trình hồi sinh của Chí Phèo – một người đã tưởng đã là quỷ dữ của làng Vũ Đại ..
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở… Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.
Sau một thời gian dài hoàn toàn bị tha hóa, Chí Phèo sống triền miên trong những cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình.Cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở, Chí đã thật sự được hồi sinh.Có thể nói, đây là giai đoạn quan trọng nhất trong cuộc đời của Chí với những thời khắc bừng sáng ngắn ngủi và hạnh phúc, để rồi sau đó tắt ngấm ngay.Chí lại rơi vào bế tắc và thảm kịch đã xảy ra: đâm chết Bá Kiến rồi tự sát.
Sau một tối say rượu, Chí đã tình cờ gặp Thị Nở.Họ ăn nằm với nhau.Thế rồi nửa đêm, Chí đau bụng, nôn mửa. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bị hắt hủi.
Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc chỉ có một chút cháo trắng với hành nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Nếu như trước đây, hắn chỉ biết uống rượu, rạch mặt, ăn vạ, rồi gây nên biết bao nhiêu tội ác thì giờ đây sau khi ăn bát cháo hành của Thị Nở hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ ta thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc. Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Trước đây, chỉ toàn là đi cướp giật của người khác, hắn thấy “xưa nay có thấy tự nhiên ai cho ai cái gì”. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”. Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.
Đồng thời, bát cháo ấy đã lấy lại sức khỏe cho hắn bởi vì hắn càng ăn mồ hôi lại càng ra nhiều. Và tất nhiên, điều này rất tốt đối với một người bị cảm gió như hắn. Tuy chỉ là bát cháo hành bình thường thôi nhưng nó đã giúp Chí khỏi bệnh, hắn thấy bát cháo mới thơm ngon làm sao, những người suốt đời không ăn cháo hành sẽ không biết rằng cháo hành ăn rất ngon…nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo, tự hỏi để rồi tự mình trả lời. Đó chính là bởi vì đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Sự gặp gỡ với Thị Nở như là một điều kì diệu đối với Chí, hình ảnh của Thị giống như một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, say triền miên với những chuỗi dài bi kịch của Chí Phèo. Điều đặc biệt hơn, đây là tình cảm đáng trân trọng giữa những con người có cảnh ngộ khốn cùng.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Nam Cao là cây bút vàng trong làng truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Một trong hai đề tài quen thuộc và nổi tiếng của ông đó là hình ảnh người nông dân bị bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chí Phèo của Nam Cao là một kiệt tác trong văn xuôi hiện đại được viết vào năm 1941. Truyện là một chuỗi những bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, như nổi trong đó là quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm đáng được nhắc đến.
Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ được một ông đổ ống lươn nhặt ở lò gạch về rồi được dân làng nuôi lớn. Lớn lên, Chí vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.
Chính Bá Kiến vì những ghen tuông mù quáng đã đẩy một anh Chí vô tội vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh, thành tay sai đắc lực cho hắn. Lúc ấy, anh bị xã hội ruồng bỏ, bị tước đi mất quyền làm người, bị mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo triền miên trong những cơn say. Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời.
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống triền miên trong những cơn say, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. Nhưng bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo có cơ hội để làm lại cuộc đời, để trở lại là một anh Chí lương thiện một lần nữa. Ông đã đem tình thương chạm đến tận đáy trái tim cô độc khát khao yêu thương của con người là người ta vẫn gọi là “con quỷ dữ làng Vũ Đại” đó.
Hắn đã dần bỏ rượu, cứ nghe mùi rượu là hắn ớn, những phút yêu đương với Thị Nở chiếm hết thời gian của hắn. Hắn tưởng Thị Nở đã chấp nhận hắn thì mọi người ắt sẽ chấp nhận được hắn thôi.
Nhưng cánh cửa Thị Nở mở cho hắn về với cuộc đời vội khép lại. “Con mụ” dở hơi ấy vì “nhận ra mình còn một bà cô” nên đã “dừng yêu” về nhà hỏi cô. Bà cô là đại diện cho những hà khắc, những định kiến của xã hội cùng với tâm tính của một bà già còn “ở vậy” đã ngăn cấm cháu đến với Chí, một thằng suốt đời chỉ biết rạch mặt ăn vạ.
Chí Phèo nào biết mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Buổi sáng chờ Thị Nở đối với hắn thật là dài, và hắn thấy “Chao ôi! Buồn”. Mọi vật mà hằng ngày vì say mèm hắn quên để ý nên thứ gì cũng thấy mới mẻ. Hắn muốn uống rượu nhưng để có thời gian mà yêu, nên thôi. Diễn biến tâm trạng của hắn thật là khó diễn đạt. Có lẽ nào con người của ý chí, của lương tri đã sống lại trong hắn? Sự vật chung quanh bừng sáng, âm thanh mái chèo khuấy nước nghe là lạ. “Chao ôi! Buồn”, có gì đâu mà chẳng buồn đối với hắn. Hắn chợt nhớ… những ước mơ thời tuổi trẻ một mái gia đình nghèo thôi chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có chút ít vốn thì nuôi mấy con lợn trong nhà. Anh canh điền của tuổi đôi mươi chợt hiện về trong Chí. Chí khao khát được trở lại với cuộc sống, trở lại với cộng đồng và trong ý nghĩ của Chí thì Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về với đồng loại.
Bao dự định tốt đẹp mà hắn với Thị Nở sẽ làm như mạch suy tưởng của anh Chí với khát vọng sống ngày xưa. Chí chờ Thị và thời gian như bỡn cợt hắn. Và rồi Thị đến, Thị đem đến cho hắn, nếu lần trước là bát hành nóng, thì hôm nay là gáo nước lạnh tạt vào mặt. Mọi sự bất ngờ quá. Hắn cứ tưởng Thị đùa nên lấy làm thú vị. Rồi hắn ngạc nhiên! Và hắn hiểu. Hiểu cái xô của Thị. Lần thứ hai Chí khóc. Không thể mô tả bản mặt của Chí lúc này, hắn rất đáng thương. Nam Cao cũng chỉ có thể nhìn nhận đấy là bản mặt của một con vật lạ khác mặt con quỷ trước đó.
Chí uống mọi lúc để có can đảm làm việc gì đó như đi đòi nợ, rạch mặt ăn vạ, hắn chỉ việc uống cho thật say. Quái, sao càng uống càng tỉnh, “những thằng điên và những thằng say không bao giờ làm những việc mà trước đó hắn định làm”. Chí Phèo định đến nhà để “giết chết con mụ khọm già”. Hắn nghĩ tại bà cô của Thị Nở. Hắn xách dao đi trong trạng thái không say cũng không tỉnh nhưng không phải đến nhà bà cô Thị Nở mà lối ấy đến nhà Bá Kiến.
Khi không còn gì, dường như lúc ấy người ta lại còn rất nhiều. Chí còn gì đâu, nhân hình đã mất, nhân cách cũng không còn, Thị Nở là điểm tựa là niềm ao ước duy nhất của Chí để đưa Chí trở về với cuộc sống của cộng đồng. Nhưng Thị Nở đã khép mất cánh cửa hi vọng của đời Chí. Chỉ còn mối thù ai đã xô Chí đến con đường này, tiến không được, lùi cũng không xong. Có lẽ mọi sự đã hết nhưng Chí phải làm cho xong một việc. Đòi lương thiện cho mình.
Chí Phèo sống khổ mà chết vật vã cũng khổ. Qua bi kịch đó nhà văn tố cáo một xã hội đã đày đọa, tha hóa, bần cùng hóa con người, đẩy họ vào chỗ biến dạng cả nhân tình lẫn nhân hình. Nam Cao viết nhiều đến cái “đói” nhưng riết nóng nhất trong văn của ông là cái “đói người” trong sự giành giật của phần “con” và ông lớn tiếng đòi quyền sống cho phần “người” ấy.
Đọc xong truyện mà câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo ám ảnh ta mãi. Quả thật với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tài năng của mình. Nam Cao miêu tả những vết thương trong nhân cách con người. Nhưng ông xoáy sâu mà tìm cách chạy chữa cho nó. Với những trang văn và những bi kịch điển hình như Chí Phèo, Nam Cao đã lớn tiếng đòi tự do, hạnh phúc cho con người, cũng như lời gọi: Hãy cứu lấy, bảo vệ cho nhân cách con người! Với đề tài đã khai thác tối đa như đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao với lưỡi xẻng ngôn từ và tài năng của mình, vẫn có thể “tìm tòi”, “khơi được những nguồn chưa ai khơi”, lật lên nhiều mảng khổ đau và mảng đẹp mới, trong tính cách, trong bản chất của người nông dân Việt Nam ở thời điểm đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----
Tài liệu liên quan
Tư liệu nổi bật tuần
-
Phân tích 9 câu thơ đầu bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
27/06/2024115 - Xem thêm