Khi nói đến truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, chúng ta không thể không nhắc đến hình ảnh làng Vũ Đại - một ngôi làng nghèo nàn, lạc hậu, nặng nề những định kiến, hỗn loạn về đạo đức và nhân phẩm. Để cảm nhận một cách sâu sắc về hình ảnh ngôi làng ấy, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện Chí Phèo dưới đây. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài văn mẫu Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam.
- Chí Phèo là kiệt tác mà ở đó người ta thấy được bi kịch của những lớp người nông dân thấp cổ bé họng, có số phận bi thảm khi bị tha hóa về cả nhân hình lẫn nhân tính, cùng với đó là bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, bần cùng, xơ xác vào những năm 1940-1945. Trong truyện ngắn Chí Phèo chính là hình ảnh về làng Vũ Đại, nơi Chí Phèo được sinh ra cũng là nơi đã kết thúc cuộc đời hắn trong đau đớn, tuyệt vọng.
b. Thân bài:
* Tổng quan:
- Làng Vũ Đại là hình ảnh thu nhỏ của một cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, hủ bại.
- Không chỉ một mình Chí Phèo bị tha hóa, ở cái làng ấy cũng có nhiều người bị tha hóa, mỗi một con người đều có cho mình những bi kịch riêng.
* Hình ảnh làng Vũ Đại với tầng lớp thống trị tàn ác, khôn khéo, lọc lõi, tha hóa về nhân cách:
- Bá Kiến: Có chức quyền, nhưng bất lực, sợ vợ, hay ghen, rất mực khôn ngoan trong chốn quan trường.
- Lý Cường: Hống hách, tàn ác, nhưng manh động, ưa bạo lực.
- Các bà vợ của Bá Kiến: Lắm chuyện, bà ba thì bản chất dâm đãng, lăng loàn.
* Hình ảnh làng Vũ Đại với những người nông dân cùng khổ, chất chồng bi kịch:
- Chí Phèo: Vốn hiền lành lương thiện, nhưng bị bắt đi tù oan vì bá Kiến ghen tuông, sau trở thành lưu manh, tha hóa về nhân cách, bi kịch bị chặt đứt con đường quay trở về làm người lương thiện vì những định kiến tàn khốc trong xã hội.
- Năm Thọ một kẻ cướp giật, đi tù rồi vượt ngục về liều chết uy hiếp lí Kiến cho tiền, sau bỏ đi biệt xứ.
- Binh Chức hiền lành lương thiện, nhưng cũng bị xã hội ấy chèn ép đến bực phải bỏ đi lính, rồi vợ ở nhà phạm tính đa dâm, lang chạ với người khác. Binh Chức trở thành một kẻ liều chết như Chí Phèo, ngang nhiên đòi tiền lý Kiến mà không phải tội, lại được sống yên ổn trên chính quê hương với vợ con và làm chân tay cho lý Kiến đến hết đời.
- Ông thầy cúng kiêm nghề thiến lợn - Tự Lãng, vợ chết, con gái chửa hoang rồi bỏ đi, chỉ còn lại một mình lão cũng trở nên nát rượu như Chí Phèo.
- Một Thị Nở đã nghèo lại còn xấu đau xấu đớn, thêm cái tính dở hơi, hơn 30 tuổi vẫn ế chỏng ế chơ, cùng sống với thị là bà cô già cũng ế chồng, hai cô cháu sống tạm bợ trong cái nhà tre tạm bợ, gần với nhà Chí Phèo.
* Những cái khốn nạn, lạc hậu xen lẫn cái nghèo nàn của ngôi làng đã dồn ép con người ta vào đường cùng:
- Tuy nghèo khó, nhưng con người người đây vẫn không thôi được cái bản tính ích kỷ, nhiều chuyện, thích xuyên tạc vấn đề (chuyện của Chí Phèo với bà ba).
- Người ta cố chấp với định kiến xã hội ăn sâu vào tiềm thức, chứ nhất quyết không chịu mở một con đường bao dung cho Chí Phèo quay trở về làm người lương thiện.
- Xã hội mà đạo đức, tính người xuống cấp, tha hóa, đàn bà thì lăng loàn, đa dâm, chửa hoang, bố mẹ thì vứt bỏ con cái, đàn ông kẻ thì nát rượu, lưu manh đâm thuê chém mướn,...
c. Kết bài:
- Trong truyện ngắn Chí Phèo hình ảnh làng Vũ Đại đã hiện thật rõ ràng qua hình ảnh, đặc biệt là qua những nỗi khổ, những bi kịch của từng con người đã và đang sinh sống ở dưới cái làng ấy.
- Đó một cái xã hội phong kiến hủ bại, thối nát, một ngôi làng nghèo nàn, lạc hậu, nặng nề những định kiến, hỗn loạn về đạo đức và nhân phẩm, là bức tranh hiện thực tàn khốc của nông thôn Việt Nam những năm trước cách mạng, của chính cái chế độ thực dân nửa phong kiến độc ác, tha hóa về mọi mặt.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích hình ảnh làng Vũ Đại trong truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam, hai đề tài chính của ông là viết về người trí thức và người nông dân ở xã hội cũ, những con người cùng khổ, bị cái xã hội vô nhân đạo dồn ép vào đường cùng để rồi chết mòn trong bi kịch tinh thần, bi kịch đói nghèo. Nếu như với đề tài người trí thức cũ, Nam Cao không phải tốn quá nhiều công sức để tưởng tượng, đặt mình vào tâm hồn nhân vật, bởi vì chính bản thân ông cũng là một trí thức nghèo, ông thấu hiểu cái khổ của người trí thức hơn bao giờ hết. Thì đến với đề tài của người nông dân người ta mới thực sự thấy được cái tài năng bậc thầy của Nam Cao trong việc xây dựng hình tượng và bi kịch của người nông dân cùng khổ dưới đáy xã hội lúc bấy giờ. Chí Phèo chính là kiệt tác mà ở đó người ta thấy được những lớp người nông dân thấp cổ bé họng, bi thảm bị tha hóa về cả nhân hình lẫn nhân cách, thế nhưng tận thẳm sâu tâm hồn họ vẫn giữ gìn cái bản chất lương thiện, hiền lành, chỉ là họ bị chính cái xã hội tàn khốc chà đạp, chối bỏ. Cùng với đó là bức tranh nông thôn Việt Nam nghèo đói, bần cùng, xơ xác vào những năm 1940-1945, mà trong truyện ngắn Chí Phèo chính là hình ảnh về làng Vũ Đại, nơi Chí Phèo được sinh ra cũng là nơi đã kết thúc cuộc đời hắn trong đau đớn, tuyệt vọng.
Nếu chỉ đọc một đoạn trích Chí Phèo, nói về cuộc đời và những bi kịch của hắn thì có lẽ khó mà có thể tưởng tượng ra một hình ảnh làng Vũ Đại hoàn chỉnh, phải đọc cả truyện ngắn ấy người ta mới thấy dần hiện lên một ngôi làng mà trong ấy ngự trị đủ mọi cái xấu xa, cái éo le trong cuộc đời. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của một cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, hủ bại, nơi mà cái ác trở thành chúa tể, nơi đã biến một anh canh điền lương thiện trở thành một kẻ nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ. Không chỉ một mình Chí Phèo bị tha hóa, ở làng Vũ Đại cũng có nhiều người giống Chí, mỗi người đều có cho mình những bi kịch riêng, mà chốt lại cũng tại chính cái chính quyền phong kiến tàn ác đã khiến họ trở nên như vậy.
Trước năm 1945, dệt vải là nghề truyền thống của người dân trong làng. Khung dệt mỏ quạ là công cụ phổ biến để cho ra đời những tấm vải đũi thô sơ. Tuy nhiên cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám quanh năm khiến người dân ở nơi đây phải kiếm ăn từng bữa. Mặc dù tên Vũ Đại chỉ xuất hiện khi có tác phẩm Chí Phèo nhưng ngôi nhà của Bá Kiến trong truyện ở Đại Hoàng tồn tại đã trăm năm. Ngôi nhà 3 gian truyền thống của người Việt Nam này được dựng từ 16 cây cột lim, mái lợp ngói, và có nhiều hoa văn họa tiết tinh xảo. Trên nóc có khắc dòng chữ Nho nói về thời gian làm ngôi nhà. Cửa nhà là loại ghép bức bàn, ngoài hiên có một hàng dọc để chống mưa nắng. Xưa kia ngôi nhà này có nhiều thứ rất đáng giá như tranh, ảnh, hoành phi, câu đối cổ…, nhưng bị bán và mối mọt hết. Điều đặc biệt là nhà đã qua 7 đời chủ với hai lần “chết hụt”. Lần đầu tiên là năm 1953, ngôi nhà được cứu sau trận càn quét, phóng hỏa của thực dân Pháp. Lần thứ hai, ngôi nhà suýt bị đem xẻ lấy gỗ nếu cụ Trần Thế Lễ bấy giờ mua được, nhưng may thay, ngôi nhà đã được một Việt kiều mua lại để định cư. Chủ nhân đầu tiên của ngôi nhà là cụ Trần Duy Hanh, một lái buôn giàu có. Vào khoảng những năm 1910, cụ thuê hơn 20 thợ tài hoa làm nghề mộc ở Cao Đà, phủ Lý Nhân về làm mấy tháng ròng rã mới xong. Cụ Hanh mất đi người thừa kế lại ngôi nhà là con trai Trần Duy Xầm. Cụ Xầm sau đó để lại cho con là Cựu Cát. Là người chơi bời, rượu chè nên Cựu Cát nhiều lần vay tiền ngụy viên Bắc Kỳ Bá Bính (tên thật là Trần Duy Bính, mất năm 1946). Bá Bính được cố nhà văn Nam Cao tiết lộ là nguyên mẫu nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo.
Bá Bính thời bấy giờ giữ 3 chức vụ quan trọng, gồm ngụy viên Bắc Kỳ, chánh tổng và lý trưởng. Chức ngụy viên Bắc Kỳ tương đương với đại biểu Quốc hội ngày nay, vì vậy ông được phong hàng Bá, là Bá Bính. “Hồi đó Bá Bính làm quan to nên nhiều người đi hầu, đất của ông ta rộng gần nửa làng Đại Hoàng. Ngôi nhà này được Bá Bính mua lại để làm nhà thờ”, cụ Huấn kể.
Bá Bính mất đi để lại gia sản cho con là Trần Duy Tảo hay còn gọi là Binh Tảo. Bản tính nghiện rượu nên những đồ đạc trong nhà Binh Tảo đều mang đi cầm cố và bán sạch. Căn nhà là tài sản quý giá nhất cũng bị Binh Tảo rao bán. Cụ Cai Hậu sau đó mua ngôi nhà với giá 4.500 đồng (khoảng 20 cây vàng thời bấy giờ).
Chủ nhân tiếp theo của ngôi nhà là ông Trần Hữu Hòa, cháu cụ Cai Hậu. Đến năm 2007, UBND tỉnh Hà Nam quyết định lưu giữ ngôi nhà này nên đã thương thảo với bà Trần Thị Sâm (vợ ông Hòa) để mua lại với giá 700 triệu đồng. Trải qua nhiều đời chủ, nhưng kiến trúc ngôi nhà còn khá nguyên vẹn, tất cả được giữ nguyên cho đến hôm nay.
Cũng từ cuốn truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao, người ta còn nhắc đến Vũ Đại với bát cháo hành Thị Nở tình nghĩa khiến Chí Phèo có những cảm xúc mong muốn trở thành người lương thiện nhưng “ai cho tao lương thiện” và vườn chuối sau nhà. Có lẽ bấy giờ, đây chính là đặc sản mộc mạc, chân quê của người dân Vũ Đại.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Chắc hẳn, khi nghe đến làng Vũ Đại, chúng ta đều nghĩ đến nhân vật Chí Phèo, thị Nở, Bá Kiến và cả nồi cá kho làng Vũ Đại. Với lối văn tính tế, chân thực đi sâu vào cuộc sống người dân làng Vũ Đại lúc bấy giờ, Nam Cao đã làm nên một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian, khắc sâu trong tâm trí bao thế hệ người Việt. Và làng quê Vũ Đại đó xưa như thế nào.
Làng Vũ Đại là địa danh nổi tiếng gắn liền với truyện ngắn Chí Phèo. Trên thực tế làng được lấy nguyên mẫu từ làng Đại Hoàng, thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam – quê hương của nhà văn Nam Cao. Đây là hình ảnh quen thuộc đối với những độc giả Việt Nam. Nếu như trong tác phẩm “Chí Phèo”, Nam Cao miêu tả như một bức tranh về xã hội phong kiến thu nhỏ, nơi có rất nhiều bè phái với những mưu toan, thủ đoạn, áp bức người nghèo thì bây giờ, khi đến đây, mọi người sẽ rất ngạc nhiên trước một làng quê thanh bình. Làng Vũ Đại xưa kia luôn gắn liền cái nghèo, cái khổ nhưng ngày nay du khách không khỏi ngỡ ngàng trước sự đổi thay trong từng ngõ xóm. Nhưng vẫn còn đó những giá trị văn hóa trường tồn là ngôi nhà Bá Kiến cùng những đặc sản thơm ngon.
Trước hết vẫn nói về thân phận của Chí Phèo, thông qua đó ta đã thấy hình ảnh của ngôi làng lờ mờ hiện ra trước mắt, nghèo đói, bần cùng. Hắn mồ côi từ nhỏ, có lẽ là cha mẹ hắn vì nghèo đói quá nên không nuôi nổi đành đem bỏ rơi hắn, hoặc cũng có nhẽ là mẹ hắn chửa hoang rồi vì sợ cái định kiến cay nghiệt của làng nước mà giấu giếm đẻ rồi vứt hắn ở cái lò gạch cũ. Cuộc đời của Chí đã khởi đầu đầy bất hạnh như thế, thiếu thốn tình thương, sự giáo dục của gia đình, rồi thậm chí trở thành một món hàng để người ta bán lấy tiền, cũng chỉ vì họ nghèo khổ quá. Số kiếp không cho hắn được làm người lương thiện, hắn bị vu oan rồi bị đi tù, chỉ vì cái lòng ghen cay nghiệt của bá Kiến. Từ đó người ta mới nhận ra một hình ảnh nữa của làng Vũ Đại, một ông bá Kiến có chức quyền, nhưng bất lực và sợ vợ, thành thử ông ta đổ hết cái uất ức ấy lên đầu Chí, một người đàn bà dâm đãng, tuy có chồng nhưng vẫn phải ve vãn người đàn ông khác, thối nát cực kỳ. Qua sự kiện Chí được bà ba yêu thích, tin cẩn, qua miệng người làng Vũ Đại nó lại trở thành những câu chuyện khác nhau, trở thành chuyện cho người ta suy đoán những lúc rỗi mồm rảnh việc. Từ đó người ta lại thấy được cái bản chất ích kỷ, lắm chuyện, những cái định kiến chua ngoa, gay gắt gián tiếp giết chết một con người đang dần ươm mầm trong xã hội.
Làng Vũ Đại ngày ấy là ngôi làng nghèo nàn với sự thống trị của những kẻ nắm quyền tàn ác, nhưng manh động ví như lý Cường một kẻ "nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm rác", sẵn sàng lên tay bạo lực với kẻ như Chí Phèo, tuy nhiên cũng chẳng phải là hạng người khôn khéo, sành sỏi bởi mới thấy Chí rạch mặt thì hắn cũng bắt đầu lo sợ. Người ta lại thấy một làng Vũ Đại hóng hớt, nhiều chuyện khi ra xem cảnh một tên ác bá và một thằng say rượu đánh nhau với sự thích thú, hả hê. Thực tế, Lí Cường chẳng là gì so với bố của hắn là bá Kiến, bá Kiến mới thực sự là tên đầu sỏ đại diện cho cái xã hội cường quyền tàn ác lúc bấy giờ, khôn ranh đủ đường, sẵn sàng dỗ ngọt, cho tiền Chí Phèo rồi thu hắn làm vây cánh đi thay mình đâm thuê chém mướn luôn. Thế mới nói ở cái chức tổng lý chẳng phải dễ ngồi, bởi làng có hơn 2000 khẩu, lại xa tổng lý, nhưng có tới một bộ máy biết bao nhiêu vị trí nào là "lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu". Cũng minh tranh ám đấu, kèn cựa nhau không ít, không khôn khéo chắc cũng bị hất cẳng từ lâu lắm rồi.
Là nơi quần ngư tranh thực với các phe nghịch, đi lại với nhau để bóc lột con em, ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau: cánh Bá Kiến, cánh ông Đội Tảo, cánh ông Tư Đạm, cánh ông Bát Tùng... Đội Tảo ngang ngược, là cựu bỉnh cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao tranh. Còn Bá Kiên vô cùng xảo quyệt, biết mềm nắn rắn buông, biết ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn! Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được năm đồng nhưng rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì thương anh túng quá! Cụ không cần than thở: trị không lại thì cụ dùng! Cụ biết thu dụng những thằng bạt mạng để cắm thuế, cắm ruộng, đốt nhà, đâm chém... gây ra bao cảnh đổ máu, làm tan nát bao cơ nghiệp dân lành.
Là nơi đầy rẫy bọn đầu bò đâm thuê chém mướn. Năm Thọ đi thì Binh Chức lần về. Binh Chức chết thì lại nở ra một Chí Phèo - cùng với Bá Kiến là hai con quỷ dữ làng Vũ Đại. Chí Phèo chết lại có một Chí Phèo con nhất định sẽ ra đời!
Một Thị Nở dòng giống của một nhà có mả hủi… một bà cô thị suốt đời cô đơn, một Tự Lãng làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng, vợ chết, con gái chửa hoang bỏ nhà trốn đi... Bao nhiêu thảm kịch, bi kịch?
Nam Cao đã tố cáo cái hiện thực xấu xa, tàn ác của xã hội thực dân phong kiến. Những cảnh đời dữ dội, những con người đáng sợ, nguồn gốc của tội ác và đau thương đã và đang xô đẩy bao người lương thiện vào con đường đau khổ, tội lỗi.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----
Tài liệu liên quan
Tư liệu nổi bật tuần
-
Phân tích 9 câu thơ đầu bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
27/06/2024180 - Xem thêm