OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
YOMEDIA
Banner-Video
IN_IMAGE

Lai Tân - Hồ Chí Minh - Ngữ văn 8 Tập 1 Kết Nối Tri Thức


Để tiếp nối chủ đề Bài 4: Tiếng cười trào phúng trong thơ, HỌC247 xin giới thiệu đến các em nội dung bài giảng Lai Tân - Hồ Chí Minh thuộc sách Kết Nối Tri Thức dưới đây. Nội dung bài giảng được HỌC247 biên soạn và tổng hợp rõ ràng, mạch lạc sẽ giúp các em nhận biết một số yếu tố thi luật của thơ thất ngôn tứ tuyệt và hiểu về thực trạng của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Mời các em cùng tham khảo

ADSENSE/lession_isads=0
QUẢNG CÁO
 
 
 

Tóm tắt bài

1.1. Tìm hiểu chung

1.1.1. Tác giả Hồ Chí Minh

a. Tiểu sử:

- Hồ Chí Minh (19/05/1890 - 02/09/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung.

- Quê quán: Kim Liên - Nam Đàn - Nghệ An.

- Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, yêu nước. Cha là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và mẹ là Hoàng Thị Loan.

- Thời thanh thiếu niên tên là Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Tất Thành; thời gian hoạt động cách mạng, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.

- Người là một vị lãnh tụ tài ba, vĩ đại, người đã đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than.

- Người đặt nền móng vững chắc cho văn học cách mạng Việt Nam.

- Được UNESCO công nhận là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn”.

 

b. Sự nghiệp sáng tác:

- Văn chính luận: các bài báo đăng trên báo Nhân đạo, Người cùng khổ, Tuyên ngôn độc lập, Bản án chế độ thực dân Pháp, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Lời kêu gọi chống Mĩ cứu nước

- Truyện và kí: truyện ngắn viết bằng tiếng pháp đăng trên các báo ở Pa-ri (Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu), Nhật kí chìm tàu

- Thơ ca: Nhật kí trong tù, chùm thơ sáng tác ở Việt Bắc và trong kháng chiến chống Pháp (Ca binh lính ca, Ca sợi chỉ...)

1.1.2. Tác phẩm

a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

- Tập thơ Nhật kí trong tù gồm Lời đề từ và 133 bài thơ chữ Hán được Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian bị giam giữ và giải đi qua nhiều nhà tù của Quốc dân đảng tại tình Quảng Tây, Trung Quốc (từ ngày 29 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943).

- Lai Tân là bài thơ thứ 96 của tập thơ.

Tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh

Tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh

 

b. Thể loại:

- Lai Tân thuộc thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt.

Thất ngôn tứ tuyệt là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Thể thơ này ra đời vào thế kỉ XII vào Nhà Đường, ở Trung Quốc.

 

c. Bố cục văn bản:

- Phần 1: (ba câu đầu) là kể về hành vi thường thấy của ba viên quan ở Lai Tân.

- Phần 2: (Câu cuối) là một lời kết luận, một nhận xét, đánh giá của tác giả.

 

d. Tóm tắt tác phẩm:

Bài thơ Lai Tân miêu tả cảnh tượng nhà lao nơi Bác bị giam cầm ở Trung Quốc. Ban trưởng nhà lao chuyên tổ chức đánh bạc, cảnh sát trưởng kiếm ăn, thu tiền từ việc giải người, ăn hối lộ, huyện trưởng thì hút thuốc phiện. Đó là toàn bộ thực trạng đen tối nơi nhà lao, nơi thực thi pháp luật nhưng lại toàn là tệ nạn xã hội. Thế nhưng trời đất Lai Tân vẫn thái bình, tức chính quyền Tưởng Giới Thạch vẫn làm ngơ trước bức tranh nhà tù đó.

Nguyên tác chữ Hán: Bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

Nguyên tác chữ Hán: Bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

1.2. Đọc hiểu văn bản

1.2.1. Ba câu thơ đầu

- Sử dụng kiểu câu tự sự, với giọng điệu kể khách quan, không hề có sự bình luận hay bộc lộ thái độ của tác giả.

- Ba câu thơ đầu tác giả nói đến ba đối tượng khác nhau trong hệ thống quan lại Trung Quốc, cụ thể trong bối cảnh nhà giam Lai Tân thời điểm bấy giờ.

a. Câu 1:

"Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ"

- Thực trạng thối nát của chính quyền Lai Tân:

+ Con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người ham đánh bạc.

+ Hai chữ “thiên thiên” cho thấy sự việc, hành động diễn ra một cách thường xuyên, ngày này qua ngày khác, đều đặn như một thói quen, như một lẽ hiển nhiên.

=> Dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc lại là những người thực thi pháp luật. Hình ảnh nhà tù bên ngoài thì nghiêm minh nhưng bên trong thì giả dối, bất công, phi lí.

b. Câu 2:

"Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền"

- Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân:

+ Hành động cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha.

+ Thái độ của tác giả khi phản ánh thực trạng này rất thẳng thắn, dứt khoát, trực diện. Điều đó thể hiện qua hai chữ “tham thôn” được sử dụng với đúng nghĩa của nó.

=> Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự thối nát, đê tiện của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch.

c. Câu 3:

"Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"

- Câu thơ nói về việc làm của huyện trưởng.

- Câu này có nhiều cách hiểu:

+ Huyện trưởng chong đèn làm việc công; rất có thể là viên quan mẫn cán nhưng quan liêu, bằng chứng là dung túng cho bộ hạ (ban trưởng, cảnh trưởng) làm điều sằng bậy.

+ Thực chất huyện trưởng chong đèn là để hút thuốc phiện.

=> Nếu hai câu trên tác giả vạch trần bộ mặt bọn quan lại một cách trực diện thì ở câu này, Người lại sử dụng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, sâu cay.

* KẾT LUẬN: Tóm lại, chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Ở xã hội ấy, sự phi lý chồng chất, sự bất công chồng chất, sự thối nát chồng chất, nó diễn ra ở mọi chỗ, mọi việc, mọi lúc.

1.2.2. Câu thơ cuối bài

"Lai Tân y cựu thái bình thiên."

- Câu thơ cuối không đi theo mạch logic cua ba câu thơ trên. Câu cuối có thể hiểu “trời đất Lai Tân vẫn thái bình như cũ”. Thoạt nhìn tưởng như câu thơ thể hiện một sự hài lòng, một lời ca ngợi. Nhưng thực chất là sự mỉa mai, châm biếm của tác giả.

- Thái bình mà tác giả muốn ám chỉ ở đây là:

+ Thái bình đối với bọn quan lại thối nát, đê tiện, nhiễu nhương, bởi bọn chúng vẫn ngày ngày được đánh bạc, dược ăn hối lộ và hút thuốc phiện, không cần quan tâm dân tình ra sao. Điều đó càng khắc sâu thêm tình trạng thối nát đã trở thành một “nề nếp” diễn ra thường xuyên, bình ổn trong bộ máy chính quyền Lai Tân.

+ Bài thơ được viết cuối năm 1942 là lúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang ở thời kì ác liệt, phát xít Nhật xâm lược Trung Quốc, biết bao biến động, biết bao tang thương, vậy mà bọn người này vẫn bình chân, vẫn cứ thấy Lai Tân thái bình. Điều đó có cho thấy sự tàn ác, nhẫn tâm của tầng lớp quan lại Trung Quốc.

- Hai chữ “thái bình” được xem là nhãn tự của bài thơ, Hoàng Trung Thông nhận xét: “Hai chữ thái bình mà xâu tóm lại bao nhiêu việc làm trên là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ hai chữ ấy mà xé toang tất cả mọi thái bình trá nhưng thực chất là đại loạn ở bên trong”.

* KẾT LUẬN: Với giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng kì thực là mỉa mai, đả kích mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã tố cáo sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, trở thành phổ biến, trở thành nếp sống trên đất nước Trung Hoa.

1.3. Tổng kết

1.3.1. Về nội dung

Bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch và thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay.

1.3.2. Về nghệ thuật

- Ngòi bút miêu tả giản dị, chân thực.

- Lối viết mỉa mai sâu cay.

- Bút pháp trào phúng.

ADMICRO

Bài tập minh họa

Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) làm rõ chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay của bài thơ Lai Tân qua lời nhận xét: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.

 

Lời giải chi tiết:

“Lai Tân" là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc thời ấy đồng thời là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những “con người" trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy. Câu thơ toát lên một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhà thơ như hỏi một cách bâng quơ: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, thế mà !‘vẫn thái bình như xưa". Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả “Ngục trung nhật kí” là thế! Tính “hướng nội" của “Nhật kí trong tù” được thể hiện rất rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật kí lại vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho mình, để mà suy ngẫm, để mà chiêm nghiệm, "Vừa ngẫm vừa đợi đến ngày tự do". Vì thế, bài thơ “Lai Tân" tuy có nêu ra ba chân dung về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xấu xa, đồi bại của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch thuở ấy, nhưng chỉ là để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lý, nghịch cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối diện và cam chịu.

ADMICRO

Lời kết

Học xong bài Lai Tân - Hồ Chí Minh, các em cần nắm:

- Nhận biết được một số yếu tố thi luật của thơ thất ngôn tứ tuyệt như: bố cục, niềm, luật, vẫn, nhịp, đối.

- Nhận biết và phân tích được tác dụng của một số thủ pháp nghệ thuật chính của thơ trào phúng.

Soạn bài Lai Tân - Hồ Chí Minh Ngữ văn 8 tập 1 Kết Nối Tri Thức

Bài thơ Lai Tân thuộc mảng thơ hướng ngoại với nội dung phê phán nhà tù và xã hội Trung Quốc với nghệ thuật châm biếm sắc sảo. Để nắm được nội dung và ý nghĩa của bài học này, các em có thể tham khảo bài soạn:

Hỏi đáp bài Lai Tân - Hồ Chí Minh Ngữ văn 8 tập 1 Kết Nối Tri Thức

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 

Một số bài văn mẫu về văn bản Lai Tân - Hồ Chí Minh

Qua đó, bài thơ Lai Tân đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch. Chính nỗi đau của nhà thơ đã làm thức tỉnh tầng lớp trí thức đương thời. Để hiểu hơn về bài học này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:

-- Mod Ngữ văn 8 HỌC247

NONE
OFF