OPTADS360
ATNETWORK
RANDOM
ON
YOMEDIA

Nguyễn Phương Lan's Profile

Nguyễn Phương Lan

Nguyễn Phương Lan

07/04/2004

Số câu hỏi 1
Số câu trả lời 78
Điểm 412
Kết bạn

Bạn bè (0)

Hoạt động gần đây (80)

  • Nguyễn Phương Lan đã đặt câu hỏi: toán lớp 6 Cách đây 3 năm

    Hai ô tô cùng một lúc đi ngược chiều nhau từ A đến B thì có thể gặp nhau sau khi đi được 6 giờ. Vận tốc ô tô đi từ A gấp 1\tfrac{1}{3}  vận tốc ô tô đi từ B . Hỏi ô tô đ từ A phải bắt đầu đi sau thời gian xuất phát của ô tô đi từ B là bao nhiêu để hai xe  gặp nhau ở chính giữa quãng đường AB? 

  • t

  • rất hay

  • t

  • Nguyễn Phương Lan đã trả lời trong câu hỏi: VIẾT ĐOẠN VĂN Cách đây 3 năm

    t

  • Nguyễn Phương Lan đã trả lời trong câu hỏi: Phân tích cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu Cách đây 3 năm

    v

     Cảm hứng lãng mạn đòi hỏi trong thơ nội dung trữ tình dào dạt hướng tới là lí tưởng tương lai thì bài thơ Đồng Chí đã nói rất hay về tình cảm đồng chí. Nội dung trữ tình của bài thơ xoay quanh tình cảm này.Đồng chí – một tình cảm thiêng liêng, khi khái niệm đồng chí hình thành. Nhất là với những người lính nông dân lần đầu mặc quân phục gọi nhau là đồng chí thì càng thiêng liêng biết bao. Một người có thể thay thế cho gia đình, cha mẹ, vợ con đối với người khác. Hơn nữa họ bảo vệ nhau trước mũi súng kẻ thù, cùng nhau thực hiện lí tưởng cách mạng. Chính Hữu đã viết về tình cảm đồng chí với tất cả sự tự hào, hào hứng và đam mê. Dòng thơ đồng chí không chỉ là cái bản lề đóng mở giữa hai đoạn, tạo thành kết cấu hình bó mạ, mà là hai tiếng thiêng liêng thốt lên tự đáy lòng. Rõ rang, Chính Hữu đã đặt tình cảm ấy trong vị thế thiêng liêng. Phần hướng tới lí tưởng tương lai nằm trong việc cầm súng của họ. Họ lên đường để bảo vệ sự bình yên của giếng nước, gốc đa, vì một ngày mai tươi sáng. Ngay cả khi tác giả nói về cái gian khổ cũng là muốn ca ngợi những con người vượt qua gian khổ đó.

         Thơ lãng mạn của văn học cách mạng phải xây dựng được nhân vật lí tưởng hóa gắn với cảm hứng sử thi. Đồng chí cũng vậy. Nhân vật người lính được lí tưởng hóa trong tình cảm đồng chí mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, trên mọi khía cạnh đời sống vật chất, tinh thần. Trong tình cảm ấy, họ đẹp một cách lí tưởng. Nhân vật người lính cũng mang tính sử thi vì mang tính đại diện cao. Họ đại diện cho những người lính trên khắp mọi miền đất nước.

         Hình ảnh lãng mạn bay bổng vượt lên trên hiện thực đầu súng trăng treo là một trong những hình ảnh thơ lãng mạn đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Vừa thực vừa ảo. Câu thơ được xây dựng theo thủ pháp điện ảnh gợi nhiều liên tưởng. Một mảng gần, cận cảnh, một mảng xa, viễn cảnh với ý nghĩa biểu trưng, đa tầng chiến sĩ – thi sĩ, hiện thực – tương lai, chiến tranh – hòa bình, người lính – cuộc sống… Đó còn là niềm tin, là tinh thần lạc quan… Chính Hữu tâm sự rằng:

         Câu thơ bốn chữ với nhịp 2/2 vừa cân đối hình ảnh, vừa là nhịp lắc của đồng hồ. Trong đêm vắng, người này nghe rõ tiếng con tim người kia đập thình thịch. Nhịp mảnh trăng lắc lư trên đầu súng cũng là nhịp chan chứa của hai người lính cảm nhận được nhau. Nhịp ánh trăng cũng chính là nhịp đập vĩnh cửu của tình đồng chí… Thật là chân thành và hết sức lãng mạn.

         Từ những điều trên, có thể nói Đồng chí mang cảm hứng lãng mạn đậm nét. Song bên cạnh đó, ta cũng thấy những hình ảnh chân thực về cuộc sống gian khổ những năm đầu kháng chiến, hiện thực về người lính… Chất hiện thực của bài thơ là giá trị đậm nét, sâu sắc của nó.

  • t

  • 1. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí:

    - Các nội dung thường tập trung những vấn đề chính:

    • Tư tưởng mang tính nhân văn (lòng dũng cảm, khoan dung, ý chí nghị lực…)
    • Tư tưởng phản nhân văn (ích kỷ, vô cảm, thù hận, dối trá…)
    • Nghị luận về hai mặt tốt xấu trong một vấn đề

    - Các bạn cần nắm vững cấu trúc bài văn vì khi chấm bài, người chấm đầu tiên sẽ có cái nhìn khái quát về cấu trúc bài làm của bạn. Ở đây, chúng tôi xin đưa ra cấu trúc làm bài đối với dạng tư tưởng nhân văn (tích cực) và phản nhân văn (tiêu cực) để các bạn so sánh và nắm được nhé

    Bước 1: giải thích tư tư tưởng , đạo lí.- Cách làm cụ thể:

    - Cần giải thích rõ các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng (nếu có); rút ra ý nghĩa chung của tư tưởng, đạo lý; quan điểm của tác giả qua câu nói (thường dành cho đề bài có tư tưởng, đạo lý được thể hiện gián tiếp qua câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ…).

    giải thích những từ trọng tâm ==> sau đó giải thích cả câu nói.

    Bước 2: Bàn luận

    – Phân tích và chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý (thường trả lời câu hỏi tại sao nói như thế? Dùng dẫn chứng cuộc sống xã hội để chứng minh. Từ đó chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống xã hội).

    -Bác bỏ ( phê phán ) những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề : bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng, đạo lý đúng trong thời đại này nhưng còn hạn chế trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh này nhưng chưa thích hợp trong hoàn cảnh khác; dẫn chứng minh họa

    Bước 3: Mở rộng.

    - Mở rộng bằng cách giải thích và chứng minh.

    - Mở rộng bằng cách đào sâu thêm vấn đề.

    - Mở rộng bằng cách lật ngược vấn đề.

    Bước 4: Nêu ý nghĩa ,rút ra bài học nhận thức và hành động.

  • Có thể đã đôi lần bạn nghe thấy câu nói “Vô văn hóa” hay có thể chính bạn đã nói, nhưng liệu chúng ta có thực sự hiểu rõ về hai chữ “văn hóa” hay không? Trong bài phát biểu kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, học giả Vũ Khiếu đã nói “Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng chục năm, có khi cả cuộc đời” – một lời nhắn gửi nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc.

    Văn hóa là một khái niệm rộng bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống, từ khoa học cho đến nghệ thuật, từ đời sống tâm hồn, tâm linh đến thói quen sinh hoạt, thị hiếu thẩm mĩ, giao tiếp ứng xử,... của con người. Còn trong câu nói của Vũ Khiêu là bàn đến văn hóa của một người. Bằng những mệnh đề tương phản: giàu sang – có văn hóa, ba năm – chục năm, cả cuộc đời, nhà văn Vũ Khiêu muốn khẳng định sự dày công trong việc dạy dỗ, giáo dục, rèn luyện để một con người trở nên có văn hóa. Đó là một ý kiến hoàn toàn đúng và xác đáng. Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài ba năm thậm chí ngắn hơn nữa. Việc tạo lập một sự nghiệp, cuộc sống giàu có về vật chất có thể chỉ mất thời gian ngắn bằng sự cần cù và sáng tạo trong lao động. Nhưng để hình thành nền tảng văn hóa tri thức, con người cần rèn luyện, tích lũy trong khoảng thời gian hàng chục năm khi ngồi trên ghế nhà trường và trong suốt cả cuộc đời như Lê nin đã nói: Học, học nữa, học mãi. Và với giá trị văn hóa tinh thần cũng vậy. Đó là vẻ đẹp tâm hồn với các giá trị đạo đức như: tình yêu thương, nhân ái, lòng vị tha, khoan dung, sự sẻ chia, ý thức dân tộc, cộng đồng, thái độ trân trọng lịch sử, quá khứ, văn hóa gia tiếp ứng xử giữa người và người trong cuộc sống,… Văn hóa tri thức và đạo đức nhân cách của con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những người có trình độ cao thường là những nhân cách đáng trọng. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn đúng với mọi trường hợp bởi trên thực tế, nhiều người có trình độ văn hóa cao vẫn có thể có những suy nghĩ ấu trĩ, vẫn có thể mắc những sai lầm trong giao tiếp văn hóa ứng xử. Ngược lại, có những người dù không được học cao nhưng nhân cách vẫn rạng ngời, đáng kính trọng. Vì vậy, song song với việc bồi đắp tri thức văn hóa, chúng ta còn phải học làm người, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống. Việc rèn luyện để trở thành người có văn hóa là quan trọng, cần thiết. Để đào luyện một con người có văn hóa cần có sự chung tay của cả gia đình, nhà trường, xã hội. Nhưng yếu tố quan trọng vẫn là ý thức chủ động của mọi người. Khi mỗi chúng ta tự mình rèn luyện, học hỏi thì “văn hóa” sẽ hiện hiện ở mọi nơi, cuộc sống sẽ ngày càng văn minh, hiện đại hơn.

  • Nguyễn Phương Lan đã trả lời trong câu hỏi: Cảm nhận của em về Đất nước qua góc độ lịch sử của Nguyễn Khoa Điềm Cách đây 3 năm

    Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để gìn giữ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Vì thế, cũng là lẽ tự nhiên, tình cảm yêu nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống sâu đậm của văn học dân tộc từ ngàn xưa. Tình cảm yêu nước được biểu hiện trong thơ ca ta thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ. Trường ca Mặt đường khát vọng được viết giữa những năm tháng hào hùng cả toàn quân, toàn dân ta đang tập trung sức lực, tập trung trí tuệ để chiến thắng đế quốc Mĩ, có vai trò không nhỏ của tầng lớp tuổi trẻ học sinh, sinh viên các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam đang thức tỉnh, siết chặt đội ngũ xuống đường. Tầng lớp này cũng có nhiều tâm tư, nhiều suy ngẫm về thế hệ mình, về đất nước. Từ góc độ đó, ở Đất Nước, chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước, trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử thách lớn của lịch sử.

    Hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gắn với những nhân vật, hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta. Tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự vật, sinh hoạt gần gũi, từ những phong tục văn hóa có tự ngàn xưa. Đất nước có trong những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ, trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy thành chông cho dân mình đánh giặc. Đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận đất nước từ những cái bình thường quanh ta đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ ghép đất nước được tách thành đôi để nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành đôi.

    Đất và Nước:

    Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

    Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai

    Đất là nơi Chim về

    Nước là nơi Rồng ở

    Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Đất nước trường tồn trong thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Vậy là những hình ảnh, sự vật trên rất đỗi bình thường, nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử - văn hóa vững bền, không gian địa lí mênh mông của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này. Đất nước là đời sống, là hơi thở hàng ngày của mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể mênh mông, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải suốt chiều dài lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến đạo lí Hàng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết kể chuyện cổ tích, có tục ăn trầu... Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết làm bạn với cây tre, với cái kèo, cái cột... Đằng sau những điều giản dị ấy là truyền thống lịch sử — văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam ta. Từ góc độ đời sống cá nhân, nhà thơ nói được cả cuộc sống cộng đồng, đưa đến cho người đọc cảm nhận toàn vẹn, tổng hợp về vẻ đẹp đất nước.

    Làm nên truyền thống lịch sử - văn hóa độc đáo, vững bền của đất nước chính là bao thế hệ nhân dân. Bởi thế, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này gắn liền cùng lòng yêu nhân dân, cùng niềm tự hào về vai trò to lớn của nhân dân. Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, xuyên suốt đoạn trích Đất Nước này và chính ngay cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ tự nhiên dẫn đến tư tưởng ấy.

    Có lẽ chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, vai trò to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Cuộc đối chọi quyết liệt với một kẻ thù giàu có và hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi phải huy động triệt để sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và làm nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh ấy, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô vàn lớp người vô danh bình dị:

    Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

     Cần cù làm lụng

    Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trờ về nuôi cái cùng con

    Đối với nhân dân, cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, sống và chết đều thật giản dị và bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Khi đất nước thanh bình, họ "cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó". Khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng xả thân vì độc lập, chủ quyền như lẽ tự nhiên. Chính những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất Nước. Trong trường kì lịch sử, nhân dân là lực lượng chủ yếu sáng tạo, giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm nên Đất Nước muôn đời:

    Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.

    Bao lớp người vô danh, thầm lặng ấy đã hóa thân cho đất nước vững bền. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa thân của nhân dân hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Không ít tác phẩm thơ văn đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, những sự tích núi sông của đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng gắn chúng cùng số phận, cùng phẩm chất của những người dân bình dị, thấy trong đó cuộc đời hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân, ấy là Nguyễn Khoa Điềm. Sau khi nhắc tới hàng loạt danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông trên các miền đất nước, nhà thơ đi đến một khái quát thấm thía:

    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

     

    Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...

    Làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ nhiều phía, nhiều chiều như thế, đoạn trích đã đem đến cho người đọc niềm tin vào sự trường tồn của đất nước. Đất Nước là của nhân dân, mà nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này mãi mãi trường tồn cùng với nhân dân.

    Chiêm ngưỡng tiếp nhận Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ Đất Nước này khi ra đời giữa những năm tháng chiến tranh quyết liệt, hào hùng, khi lịch sử đang yêu cầu mọi con người phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt rất tự nhiên cùng quá trình khám phá ngày càng sâu về đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì thân thiết ở ngoài ta, ở xung quanh ta. Nhưng dần về sau, đất nước đã ở trong ta, đất nước có trong mỗi người:

    Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần Đất Nước

     Khi hai đứa cầm tay

    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

     Khi chúng ta cẩm tay mọi người

    Đất Nước vẹn tròn, to lớn

    Mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất nước, của nhân dân, của bao thế hệ đi trước, vì thế phải biết cống hiến đời mình vì lẽ tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết tha. Đó là mệnh lệnh cất lên từ trái tim đang xúc động:

    Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời...

    Như vậy, tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam, nằm trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, Nguyễn Khoa Điềm đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, phong tục... để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân và gợi nhắc ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Nhưng sức hấp dẫn của chương Đất Nước không chỉ ở các nội dung cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Khi đưa vào đây nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, về văn hóa dân gian, thơ dễ sa vào diễn ca theo lối phô bày hiểu biết, dễ chỉ tác động vào lí trí mà khó lay thức tình cảm người đọc. Nguyễn Khoa Điềm đã vượt qua thử thách đó và Đất Nước vừa làm sáng bừng nhận thức, vừa lay động sâu xa tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Cái gì đã tạo nên thành công ấy? Điều chủ yếu là do tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú này đã được thẩm thấu qua tâm hồn chứa chan xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm và nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng, bằng giọng điệu tâm tình, qua hồi ức lại những kỉ niệm riêng tư:

    Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

    Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể

    Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

    Ngay từ phần mở đầu, Đất Nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, sâu lắng. Toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức "anh" trò chuyện cùng "em". Với hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, thủ thỉ. Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử mà như tâm sự về những kỉ niệm tuổi thơ, như nhắc lại những hồi ức cảm động về người thân trong gia đình là bà, là mẹ. Bề dày của lịch sử, của nền văn hóa phong phú, lâu đời, cả không khí của truyền thuyết Thánh Gióng, cổ tích Trầu Cau bỗng được sống dậy trong cảm nhận gần gũi của mỗi người đọc. Chính nhờ lối thể hiện ấy mà vẻ đẹp sâu xa của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước được người đọc nhận cảm một cách tự nhiên, thấm thía.

    Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phền chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.

     

Điểm thưởng gần đây (11)

  • Nguyễn Phương Lan: câu trả lời bị xoá, user trả lời -10 (-10đ) Cách đây 2 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: đã làm Trắc nghiệm theo bài học hệ số 1 (Trắc nghiệm Lịch sử và Địa lí 6 KNTT Bài 22: Lớp đất trên Trái Đất) (+3đ) Cách đây 3 năm
  • Nguyễn Phương Lan: Login đăng nhập hàng ngày (+2đ) Cách đây 3 năm
OFF