OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
YOMEDIA
Banner-Video
IN_IMAGE

Thuyết minh về một thể loại âm nhạc truyền thống.

Thuyết minh về một thể loại âm nhạc truyền thống.

  bởi thanh duy 13/02/2020
ADSENSE/lession_isads=0
QUẢNG CÁO
 

Câu trả lời (2)

  • Nhắc tới Nam Bộ, Việt Nam, người ta hẳn sẽ nhớ ngay tới những con sông dài, những con kênh chằng chịt, những vườn cây trái trĩu quả, những phiên chợ nổi tấp nập kẻ bán người mua, những con người miền Nam thật thà, chất phác, giản dị vô cùng trong chiếc áo bà ba nâu. Và chắc hẳn, nếu ai đã từng tới thăm nơi đây, sẽ không thể nào quên được những làn điệu dân ca, vọng cổ và đặc biệt là làn điệu cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống của người dân Nam Bộ.

    Nếu như miền Bắc có những làn điệu dân ca quan họ trĩu nặng tình yêu, miền Trung có những câu hò nghe tha thiết, thì ở miền Nam, người ta lại có thể rạo rực trong lòng khi nghe tới những câu cải lương thấm đẫm tình đất và người.Nói tới cải lương, hẳn không ai còn xa lạ. Cải lương là một làn điệu dân ca của người Nam Bộ. Nó là một loại hình kịch hát được hình thành trên cơ sở của nhạc đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long. Cải lương hiểu theo nghĩa từ Hán Việt có nghĩa là "sửa đổi để cho tốt hơn". Chính dựa trên những nguyên tắc và cơ sở từ lối hát truyền thống trước, đã hình thành nên một làn điệu dân ca mới, một sân khấu truyền thống mới in đậm hơn dấu ấn của người Nam Bộ.

    Cải lương nổi tiếng là thế nhưng lịch sử và nguồn gốc ra đời của nó vẫn còn là đề tài tranh luận của nhiều học giả nổi tiếng.Có người cho rằng, cải lương xuất phát, manh nha từ những năm đầu thế kỉ hai mươi, từ những năm 1916 hoặc 1918. Thế nhưng cái tên chính thức "cải lương" thì lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1920 trong gánh hát Tân Thịnh với câu liên đối:

    "Cải cách hát theo tiến bộ
    Lương truyền tuồng tích sánh văn minh"

    Cứ thế, cải lương ra đời và phát triển một cách hưng thịnh trong những năm đầu của thế kỉ hai mươi và lưu truyền tới tận bây giờ. Cải lương đã đi vào đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ trong từng câu hát, từng điệu hò đối đáp nhau. Nó đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Nam Bộ.

    Nghệ thuật sân khấu truyền thống - cải lương nổi tiếng đến như vậy nhưng đặc điểm của cải lương là gì thì ít ai có thể hiểu rõ.Chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu đó Nam Bộ đôi ba câu cải lương vọng lên.Nhưng để hiểu được ý nghĩa của từng câu chữ, cũng như cách dùng từ, dựng sân khấu, đề tài thì chúng ta khó có thể nắm bắt được hết.Trong cải lương, cái bắt đầu khởi sự của cải lương là những vở kịch nói mang hơi hướng của những câu hát bội và sân khấu của hát bội miền Nam. Thế nhưng dần dần, từ những vở kịch đầu tiên mang bố cục từ những tích cổ, những câu chuyện xưa, cải lương đã có cho riêng mình một sân khấu đặc trưng với các phần mở màn, hạ màn và tiến triển theo hành động của kịch. Chính những điều này đã kích thích sự phát triển của sân khấu kịch cải lương từ những ngày đầu mới chớm.

    Nếu như tuồng, hát bội, kịch nói, ... thường được dựng lên từ đề tài quen thuộc như những câu chuyện cổ tích, những sự tích được lưu truyền trong dân gian thì cải lương lại mở ra một lớp đề tài với cốt truyện rộng hơn. Những đề tài trong sân khấu cải lương được dựng lên từ những câu chuyện đời sống quen thuộc của người dân Nam Bộ, thêm vào đó là những câu chuyện mang màu sắc xã hội.Đề tài để dựng lên một vở cải lương không hề khan hiếm cũng không hề kén chọn.Người ta có thể dùng bất cứ nội dung đề tài nào để dựng lên một câu chuyện cải lương với những câu hát da diết, thầm đẫm tình cảm trong đó. Chúng ta có thể thấy những vở cải lương rất nổi tiếng như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, ... Ngoài ra, những câu chuyện tạo nên vở cải lương cũng có thể là các truyện nổi tiếng ở nước ngoài. Tóm lại, cải lương có thể dung nạp bất kì nội dung nào để tạo nên một vở kịch cải lương đặc sắc nhưng không thể thiếu trong đó là cái chất riêng của người Nam Bộ, cái hồn riêng của nghệ thuật sân khấu truyền thống được thổi vào đó qua từng câu chữ, từng tiếng hát.

      bởi hồng trang 13/02/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • Ca trù là một trong những loại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam. Xuất hiện vào đầu thế kỷ XVI, trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử, có lúc tưởng chừng như không thể tồn tại được, nhưng với những đặc trưng về loại hình nghệ thuật độc đáo, sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ và giọng hát hoà cùng các nhạc khí: phách, đàn đáy, trống chầu…

    Ca trù là một trong những loại hình âm nhạc truyền thống của Việt Nam. Xuất hiện vào đầu thế kỷ XVI, trải qua những biến cố thăng trầm lịch sử, có lúc tưởng chừng như không thể tồn tại được, nhưng với những đặc trưng về loại hình nghệ thuật độc đáo, sự phối hợp tuyệt vời giữa ca từ và giọng hát hoà cùng các nhạc khí: phách, đàn đáy, trống chầu

    Cho tới ngày nay, ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng không chỉ của Việt Nam mà của cả nhân loại. Đây là môn nghệ thuật dân gian đang được Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Tên gọi và nguồn gốc Ca trù còn có rất nhiều tên gọi.Tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cô đầu, hay hát nhà tơ…tuy nhiên dù có tồn tại ở dạng tên gọi nào thì sự tồn tại của ca trù luôn gắn liền với các đào nương “ không có đào nương bất thành ca trù, khi nói đến ca trù không thể không nói tới đào nương”.

    Để trở thành một đào nương cũng không phải là chuyện dễ, phải hội được nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ, lòng đam mê và kiên trì...sự tồn tại của ca trù được quyết định bởi chính các đào nương. Các đào nương chính là những người chuyền tải và thể hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngày nay. Ca trù được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai quản.

    Ca trù có quy chế về sự truyền nghề, cách học đàn học hát, có những phong tục trong sự nhìn nhận đào nương rành nghề, như lễ mở xiêm áo (thầy cho phép mặc áo đào nương để biểu diễn chánh thức lần đầu tiên trong đình làng gọi là Hát cửa đình), có nhũng qui chế về việc chọn đào nương đi hát thi (ngoài tài năng và sắc diện cần phải có đức hạnh tốt).

    Các cuộc Hát thi và phát giải được tổ chức rành rẽ, các lễ hội được cử hành rất nghiêm chỉnh. Ca trù được bắt nguồn từ dân ca, dân nhạc cộng với một số trò diễn và múa dân gian. Ca trù lúc khởi thủy cũng như trong một thời gian khá dài là một bộ môn nghệ thuật tổng hợp, bao gồm nhạc, thơ, múa và trò diễn. Chính vì vậy độc đáo của ca trù chính là sự phối hợp đa dạng, tinh vi, nhuần nhuyễn giữa thi ca và âm nhạc, đôi khi có cả múa. Loại hình Hầu hết các loại hình nhạc cổ Việt Nam đều có sự phối hợp giữa thơ và nhạc như: vè, đồng dao có thơ 3, 4 chữ, các bài hát ru, hò, lý, các làn điệu chèo thường là thơ lục bát, lục bát biến thể hay song thất lục bát.

    Không chỉ có vậy, ca trù là một loại nhạc thính phòng, như ca Huế miền Trung, ca Tài tử miền Nam. Nhưng trong các loại nhạc thính phòng này, bài ca có những nét nhạc cố định, nếu đặt lời mới cũng phải tuân theo nét nhạc đó, còn ca trù giai điệu không cố định mà tùy theo thanh giọng của lời thơ, vì vậy mà trong các bài Gửi thư, Hát ru, Bắc phản,… có những giai điệu khác nhau, cùng một thể hát nói nhưng có rất nhiều bài. Mỗi loại thơ đều có nét nhạc và tiết tấu đặc biệt tạo ra nhiều thể trong ca trù. Đặc biệt trong ca trù thanh nhạc và khí nhạc đi song song với nhau và mỗi loại đều có nét đặc thù. Về thanh nhạc, ngoài hát tuồng có những kỹ thuật phong phú và độc đáo còn các bộ môn ca nhạc cổ truyền khác đều không có kỹ thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi như ca trù.

    Thể hiện rõ nhất là khi đào nương cất tiếng hát, kỹ thuật hát rất điêu luyện, không cần há to miệng, không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm ư mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành rõ chữ. Hát trong cửa đình không cần ngân nga. Hát chơi có cách đổ hột, đổ con kiến làm cho tiếng hát thêm duyên, có khi như tiếng nức nở, thở than quyện vào lòng người. Nhạc cụ Đàn đáy, nhạc cụ đặc trưng của ca trù Trong ca trù bên cạnh thanh nhạc thì khí nhạc cũng hết sức quan trọng và đặc biệt. Khí nhạc gồm: cỗ phách, đàn đáy, và trống chầu.

    Cỗ phách chỉ là một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách và hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Gõ hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng trầm tiếng bổng, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, tiếng thấp, tiếng cao, tiếng trong, tiếng đục, tiếng dương, tiếng âm...Người biểu diễn cũng hết sức nhịp nhàng, tay cầm phách cái, phách con, tay đưa lên cao, tay đưa xuống thấp uyển chuyển như múa. Không thể không nói đến một loại nhạc cụ quan trọng, đó là đàn đáy được dùng trong ca trù.

    Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang, mặt đàn bằng cây ngô đồng, có mặt mà không có đáy, cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, có cách nhấn khác thường, tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, lúc chân phương khi dìu dặt, dễ đi vào lòng người. Góp thêm âm hưởng là trống chầu: trống chầu trong ca trù cũng khác với trống chầu trong Tuồng, Hát bội...cả ở kích thước lẫn cách đánh. Kích thước và hình thức của trống chầu rất gần với trống đế của chèo nhưng cách đánh và chức năng hoàn toàn khác. Dùi trống không gọi là “dùi” mà gọi là “roi chầu”.

      bởi Vũ Minh Khang 04/03/2020
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
 

Các câu hỏi mới

NONE
OFF