OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
YOMEDIA
Banner-Video
IN_IMAGE

Phát biểu cảm nghĩ khi đọc Sự tích Bánh Chưng, bánh Giầy

Em hãy viết bài văn phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Sự tích bánh trưng bánh dày.

  bởi Nguyễn Minh Minh 26/01/2019
ADSENSE/lession_isads=0
QUẢNG CÁO
 

Câu trả lời (2)

  • Trên thế giới, mỗi dân tộc đón Tết cổ truyền theo một phong tục khác nhau. Ở nước ta, từ ngàn xưa đã có tục cúng Tết bằng bánh chưng, bánh giầy. Truyện sự tích bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh này vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề, cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời, đất, tổ tiên của nhân dân ta. Truyện còn là bài học quý về cách lựa chọn và sử dụng người có tài, có đức để trị vì đất nước.

    Bối cảnh của truyện là đời Hùng Vương thứ sáu. Khi đã về già, nhà vua muốn truyền ngôi nhưng vì có tới hai mươi người con trai nên băn khoăn không biết chọn ai cho xứng đáng. Lúc ấy, giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng giặc trong vẫn còn phải đề phòng. Nhà vua muốn đưa đất nước đến giai đoạn thịnh vượng, ông biết rằng dân ấm no thì ngai vàng mới vững. Hiềm một nỗi, nhà vua tuổi cao sức yếu, lực bất tòng tâm.

    Một hôm, ông gọi các con lại và nói: Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm chiếm bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên Vương, ta đều đánh đuổi được, thiên hạ hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không sống mãi ở đời, người nối ngôi ta phải nối chí ta, không nhất thiết là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương chứng giám.

    Các Lang (con trai vua Hùng thời ấy gọi là Lang), ai cũng muốn ngôi báu về mình nhưng họ không thể hiểu nổi ý tứ sâu xa của vua cha. Họ chi nghĩ đơn giản là cứ chuẩn bị mâm cao, cỗ đầy, lễ vật ngon lạ… là đủ, cho nên vội sai người đi tìm của quý khắp trên rừng, dưới biển.

    Riêng Lang Liêu – con trai thứ mười tám của vua Hùng đã được một vị Thần giúp đỡ, bởi vì chàng vốn chịu thiệt thòi so với các anh, không được hưởng giàu sang phú quý. Từ nhỏ, chàng đã phải chăm lo công việc đồng áng, trồng lúa, trông khoai. Lang Liêu tuy thân là con vua nhưng phận thì lại giống người nông dân lao động. Chàng buồn vì trong nhà chỉ có khoai và lúa. Nhưng khoai lúa tầm thường quá. Chàng tủi thân nghĩ thầm như vậy.

    Theo quan niệm của tổ tiên chúng cha ta ngày xưa thì Thần, Phật, Tiên Bụt thường hay giúp đỡ người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền thế, của cải gì, lại chẳng có kẻ ăn người ở để sai khiến đi tìm của ngon vật lạ. Chàng chi có tấm lòng yêu kính vua và đôi tay làm lụng chuyên cần. Chàng đã được Thần Phật giúp đỡ.   

    Lang Liêu được Thần báo mộng, dạy rằng hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên vương, bởi trong trời đất không có gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo nuôi sống con người, Hạt gạo quý giá như vậy và nó lại dễ kiếm bởi nó được làm ra do chính bàn tay lao động của con người.

    Lang Liêu hiểu và làm theo ý Thần. Lời khuyên của Thần thật sáng suốt, chân tình. Càng nghĩ Lang Liêu càng thấy đúng. Suy nghĩ của Thần chính là suy nghĩ, tâm tư, ước vọng của nhân dân. Thần đây chính là hiện thân của nhân dân. Ai có thể trân trọng coi hạt gạo là hạt ngọc của tròi đất và cũng là kết quả mồ hôi, công sức của con người như nhân dân?, Nhân dân rất quý trọng cái nuôi sống mình, cái mình làm ra được. Phải là những người một nắng hai sương làm ra hạt gạo nuôi đời mới có suy nghĩ sâu sắc và đáng quý như vậy. Lang Liêu dâng lên vua cha phẩm vật quý nhất trong trời đất, lại do chính tay mình làm ra thì quả thật chàng là người con hiếu thảo.

    Được thần linh mách bảo, kết hợp với tấm lòng thành, óc sáng tạo và đôi tay khéo léo, Lang Liêu đã dùng thử gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, cùng với đậu xanh, thịt lợn, gói bằng lá dong, buộc bằng lạt giang thành một thứ bánh hình vuông rồi đem nấu chín.

    Vậy là chàng không phải mất công tìm kiếm đâu xa. Gạo, đậu do chàng trồng, lợn chàng nuôi, lá dong mọc sẵn trong vườn, ngoài bãi. Ngần ấy thứ kết hợp với nhau thành thứ bánh đặc biệt xưa nay chưa từng có. Và cũng gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành thứ bánh hình tròn. Đó là bánh giầy.

    Thật thú vị là cảnh thi cỗ trong ngày cúng Tiên Vương. Các con trai của vua Hùng mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng (cách gọi các sản vật quý hiếm) tới, chẳng thiếu thứ gì. Thế nhưng vua cha chỉ xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm cỗ của Lang Liêu. Điều gì đã cuốn hút nhà vua quan tâm tới hai thứ bánh ấy? Có lẽ trước tiên là hình dáng vuông vức của bánh chưng và hình dáng tròn trịa của bánh giày cùng vẻ đẹp mộc mạc, ưa nhìn của chúng. Bánh chưng xanh, bánh giầy trắng muốt, mịn màng. Hùng Vương rất vừa ý, bèn gọi Lang Liêu lên hỏi. Chàng thật tình đem chuyện giấc mộng gặp Thần ra kể lại. Vua cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời Đất và Tiên Vương.

    Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu lại được Hùng Vương lựa chọn và chàng được nối ngôi vua?

    Bởi vì hai thứ bánh đó thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo do chính con người làm ra.

    Hùng Vương chắc đã cảm nhận được tính chất thiêng liêng trong câu chuyện Thần báo mộng kia. Lời Thần dạy quả không sai: Trong trời đất, hạt gạo là quý nhất. Hạt gạo nuôi sống con người, dân có ấm no thì ngai vàng mới vững. Lang Liêu biết quý lao động, quý thành quả làm ra từ mồ hôi nước mắt của mình.

    Sau khi thưởng thức hai thứ bánh của Lang Liêu, nhà vua và quần thần ai cũng tấm tắc khen ngon. Lời giải thích của nhà vua về hai thứ bánh này thật có lí có tình: Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mờ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau…

    Hai thứ bánh này chứng tỏ được tài đức của người có thể nối chí nhà vua. Đem cái quý nhất trong trời đất, lại do tay mình làm ra dâng lên vua cha để tiến cúng Trời Đất cùng các bậc Tiên Vương thì Lang Liêu quả là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo. Vua Hùng phán rằng: Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.

    Lang Liêu là người tốt, có đủ tài trí để chăm lo cho muôn dân và nối chí vua cha. Trao ngôi báu cho Lang Liêu là thuận ý trời, hợp ý Hùng Vương. Sự tích bảnh chưng, bánh giầy đã đi vào phong tục ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt. Nhân dân ta đã xây dựng nên phong tục từ những cái bình thường giản dị nhưng rất giàu ý nghĩa. Chiều 30, tiếng chày giã bánh giầy vang khắp xóm thôn. Đầm ấm biết bao là cảnh cả nhà náo nức vây quanh ngọn lửa hồng nấu bánh chưng xanh. Trên bàn thờ tổ tiên phải bày vài cặp bánh chưng và mâm bánh giầy thì mới là Tết.

    Sự tích bánh chưng, bánh giầy nằm trong mảng cổ tích giải thích nguồn gốc sự vật xuất hiện sau thời kì vua Hùng dựng nước. Sự tích trầu cau giải thích tục ăn trầu. Sự tích dưa hấu giải thích nguồn gốc dưa hấu… Đằng sau cách giải thích thú vị về nguồn gốc bánh chưng bánh giầy là hiện thực cuộc sống của tổ tiên dân tộc Việt! một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon lành, vừa giàu ý nghĩa.

    Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để trị vì đất nước, chăm sóc muôn dân. Vì thế, tuy ra đời cách đây đã hàng ngàn năm mà cho đến nay, truyện vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.

      bởi Việt Trang 26/01/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • “Xuân theo tóc mẹ về
    Những nỗi niềm dài ngắn
    Hoa râm chiều thôn quê...
    Bánh chưng xanh vẫn thế 
    Dẻo thơm tận đáy lòng
    Bạc thời gian dây lạt
    Vuông tròn buộc ngóng trông!”

            Bánh chưng bánh giấy là hai thứ bánh mang đậm hồn quê Việt. Cứ mỗi độ giao thừa, ta hạnh phúc biết bao khi khoảnh khắc ngồi bên bếp lửa hồng trông nồi bánh chưng chín, chọn những chiếc bánh vuông vức nhất, đẹp nhất đặt lên bàn thờ ông bà. Vậy đã bao giờ bạn thắc mắc về nguồn gốc của chiếc bánh chưng chưa? Ai là người đã sáng tạo ra nó và ý nghĩa của những chiếc bánh mang ý nghĩa gì chưa nhỉ? Chắc hẳn, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho riêng mình khi nghe truyền thuyết bánh chưng bánh giầy. Đó là một câu chuyện thú vị và sâu sắc.

       Chuyện kể rằng Hùng Vương khi về già muốn có người nối ngôi, ông hy vọng rằng người nối ngôi phải là người có đức, có tài và hợp ý mình, nên truyền cho các con làm cỗ lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý nhà vua thì được truyền ngôi. Khác với những người anh của mình, ai cũng sắm sửa cao lương mĩ vị, của ngon vật lạ thì Lang Liêu, người em út trong nhà vốn chịu nhiều thiệt thòi vì mồ côi mẹ từ nhỏ nên rất buồn, không biết làm gì để tế lễ Tiên Vương. Là người quen công việc đồng áng lại cần cù chịu khó nên trong nhà lúa gạo là nhiều chứ của ngon vật hiếm thì chẳng có gì, tìm đâu ra của quý trên rừng dưới biển. Nhờ ăn ở hiền lành lại tốt bụng, Lang Liêu được một vị thần giúp đỡ và báo mộng trong giấc mơ của mình: “Trong trời đất không có thứ gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có hạt gạo mới nuôi sống con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, mà con người không làm ra được. Còn lúa gạo thì tự tay ta trồng lấy, trồng nhiều thì được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương”. Là người hiểu biết, ham học hỏi và sáng tạo, trân quý sức lao động và giá trị hạt gạo nên chàng đã lấy gạo làm bánh, lựa chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, tròn mẩy với nhân đậu xanh và thịt lợn, lá dong làm vỏ gói bánh và nấu nhừ. Sau đó đem giã gạo nếp, nặn thành hình tròn. Những nguyên liệu làm bánh thật đơn giản, gần gũi với nhân dân, là những thứ sẵn có nhưng mang giá trị to lớn. Hạt gạo được làm nên bởi những giọt mồ hôi mặn chát, một nắng hai sương của người lao động, hạt gạo ấy là hạt ngọc của trời, là sự kết tinh những gì tinh túy nhất, trong sạch nhất của thiên nhiên và bàn tay người lao động. Hai thứ bánh ấy thật thiêng liêng và cao quý, cuối cùng Lang Liêu cũng nhận cho mình phần thưởng xứng đáng nhất khi món vật tế lễ của chàng được vua cha và quần thần tấm tắc khen ngợi. Đó là mâm cỗ đặc biệt nhất, đẹp nhất, mang ý nghĩa tốt đẹp nhất và duy nhất trong nhiều mâm cỗ của các Lang. Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, bánh hình vuông tượng trưng cho đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá dong tượng trưng cho cây cỏ, muông thú muôn loài. Thiên nhiên, đất, trời được gói ghém trong những chiếc bánh xinh đẹp ấy, tượng trưng cho một đất nước ấm no, đủ đầy, yên bình, nơi ấy còn người sống chan hoà với thiên nhiên, cùng nhau vui vẻ đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Lang Liêu quả thực là người xứng đáng nhất để nối ngôi vua với ý chí, nghị lực, đức tính tốt đẹp và tấm lòng hồn hậu, chân thành.

    http://thuthuat.taimienphi.vn/phat-bieu-cam-nghi-ve-truyen-banh-chung-banh-giay-41453n.aspx 
           Bằng việc xây dựng chi tiết kì ảo, truyện Bánh chưng, bánh giầy đã tạo nên một cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn. Chắc bây giờ các bạn cũng đã biết rõ hơn về nguồn gốc của hai loại bánh này rồi nhỉ?. Đây là thứ bánh tiêu biểu cho ngày tết cổ truyền trên đất nước ta. Ngoài ra, nó còn là sự biết ơn của người lao động đối với trời đất, tổ tiên ta ngày trước. Đó cũng chứng minh cho thành quả lớn lao của nền nông nghiệp lúa nước trên đất nước ta. Ngoài ra, truyện còn để lại cho ta bài học về giá trị sống cao đẹp, những cao lương mĩ vị hãy của cải quý hiếm cũng không thể sánh được với tấm lòng con người. Cái đẹp nhất là cái gần gũi nhất, đơn giản nhất. Cái quý giá nhất phải xuất phát từ sức lao động và tấm lòng của người làm ra nó.
     
    Thịt mỡ dưa hành câu đối tết
    Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"
      Chiếc bánh chưng, bánh giày mang trong mình cả nền văn minh lúa nước, là những gì đẹp đẽ nhất mà thiên nhiên dành tặng. Chính vì lẽ đó, chúng trở thành linh hồn của tết Việt, mang đậm dấu ấn văn hoá con người Việt Nam.

      bởi Lê Trần Khả Hân 12/05/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
 

Các câu hỏi mới

NONE
OFF