OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
UREKA

So sánh bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ

20/01/2022 1.23 MB 1858 lượt xem 2 tải về
Banner-Video
https://m.hoc247.net/docview/viewfile/1.1.114/web/?f=https://m.hoc247.net/tulieu/2022/20220120/877720586055_20220120_092135.pdf?r=4539
ADSENSE/
QUẢNG CÁO
 
Banner-Video

Thiên nhiên luôn là cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn. Bài thơ Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ là hai bài thơ đều được lấy bức tranh thiên nhiên làm chủ đề để nói lên tâm tư tình cảm của hai nhà thơ. Để thấy được điểm tương đồng và sự khác nhau của hai bài thơ này, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu So sánh bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ dưới đây. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Vội vàng.

 

 
 

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

- Giới thiệu hai đối tượng được so sánh ( Nếu như là mở bài gián tiếp thì cần thêm bước dẫn dắt đầu tiên): Đoạn trích trong Vội vàng của Xuân Diệu cũng như đoạn trích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

- Ví dụ: Là hiện tượng thơ kì lạ bậc nhất phong trào thơ mới, thơ Hàn Mặc Tử là sự đan xen thanh khiết, trong sáng và những hình ảnh ma cuối cuồng loạn nhưng trực sâu trong thẳm tâm hồn lại cháy lên một khát vọng sống mãnh liệt, niềm khao khát giao cảm với cuộc đời tươi đẹp.Chính vì thế, trong sáng tác của Hàn Mặc Tử thấp thoáng vần thơ tươi tắn lấp lánh nhưng cũng đầy chua xót, tiêu biểu là Đây Thôn Vĩ Dạ.Cùng miêu tả về vẻ đẹp thiên nhiên, Xuân Diệu - nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu với Vội vàng lại có sự thể hiện rất riêng, rất Xuân Diệu, thông qua đó cho ta thấy được một cái tôi cá nhân trong thơ mới mãnh liệt trong tình yêu cuộc sống tha thiết.

b. Thân bài:

* Về Vội vàng của Xuân Diệu

- Giới thiệu khái quát về tác phẩm, vị trí đoạn trích và tác giả

- Làm sáng rõ đoạn trích

  • Thiên nhiên trong Vội Vàng của Xuân Diệu : Hình ảnh tươi đẹp , có đôi có cặp gợi sự ngọt ngào, hạnh phúc. Cái đẹp của thiên nhiên là mùa xuân, là vẻ đẹp của con người là tuổi trẻ, mùa xuân đất trời tuần hoàn. Cõi trần gian dạt dào nhựa sống, cựa quậy sức sống đất trời, tâm hồn trẻ tươi của tác giả bắt nhịp với những gì đang đâm chồi nảy lộc.
  • Hình ảnh vạn vật căng đầy sức sống : bướm ong dập dìu, chim hót ca vang, lá cây phơ phất, hoa nở trên đồng nội...
  • Tháng giêng ngon như cặp môi gần: sự táo bạo, phát hiện vẻ đẹp thiên nhiên kì diệu.

-> Bức tranh hài hòa đầy đủ âm thanh, hình ảnh, màu sắc, đường nét...Tất cả như đang ngân lên, rung lên và hòa nhịp cùng với cảm xúc rạo rực, thiết tha của Xuân Diệu. Điệp từ "này đây" mang ý nghĩa liệt kê nhưng thể hiện được sự ngạc nhiên ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tuyệt diệu với trần thế, nó còn như lời mời gọi thiết tha chân thành, nhấn mạnh sự sống không chỉ đang căng đầy mà còn dâng trào đi muôn nơi, dâng trào đến vô cùng vô tận. Câu thơ "Tháng giêng ngon như cặp môi gần" được xem như một trong những câu thơ mới nhất, rât tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Xuân Diệu..Tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, mùa xuân lại là mùa của sự sống, cây cối đâm chồi, nảy lộc trăm hoa khoe sắc.Trong cảm nhận của nhà thơ, mùa xuân không chỉ mang trong nó vẻ tươi non của tự nhiên mà còn chứa đựng điều tuyệt vời của cuộc sống, tuổi trẻ và tình yêu.Hình ảnh "cặp môi gần" là hình ảnh độc đáo , tinh tế diễn tả thật nhất niềm đam mê , tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của nhà thơ.Quan niệm thẩm mĩ của Xuân Diệu cũng rất hiện đại, lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp thay vì lấy thiên nhiên như trong văn học Trung đại. Tính từ "ngon" thể hiện cách nhà thơ tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan.Có thể nói đây là cuộc so sánh đầy táo bạo cho thấy sự phát hiện vẻ đẹp thiên nhiên thật kì diệu, thổi vào đó 1 tình yêu rạo rực, đắm say, ngất ngây

* Về Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

- Giới thiệu khái quát về tác phẩm, vị trí đoạn trích và tác giả

- Làm sáng rõ đoạn trích bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử: Vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ xứ Huế buổi bình dưới cái nhìn khao khát ước mong, đắm say mãnh liệt hướng về tình yêu, cuộc đời

  • Thôn vĩ: vẻ đẹp thơ mộng, xanh tươi gắn bó thân thuộc sâu nặng với Hàn Mặc Tử
  • Câu thơ mở đầu vừa như lờ trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ vừa là lwoif tự vấn sao không về Vĩ Dạ hay cũng là lời mời gọi tha thiết

-> Thôn Vĩ trở thành ẩn dụ cho cuộc đời tươi đẹp mà Hàn Mặc tử muốn trở về.Việc sử dụng thanh bằng 6/7 thể hiện sự bâng khuâng, tiếc nhớ cùng hoài niệm

+ Bức tranh thôn Vĩ buổi sớm mai

  • Nắng hàng cau: Hàng cau thẳng tắp, cao vút là loài cây đầu tiên tiếp đón những tia nắng trong veo của ngày mới
  • Nắng mới lên: Nắng đầu tiên của một ngày mới mẻ ấm áp.Không phải nắng ban mai hay nắng mai như cách nói thông thường mà là nắng mới lên.Chữ “mới” tô đậm cái trong trẻo, tinh khiết của tia nắng đầu ngày.Thi nhân như đang theo chân nắng mới mà về với vĩ Dạ.

-> Cách ngắt nhịp 1/3/3 gợi ra những bước chân nhẹ nhàng, chậm rãi ngắm nhìn vẻ đẹp thôn Vĩ

  • Mướt: tính từ chỉ màu sắc xanh non tơ, óng ả tràn đầy sức sống thanh tân
  • Cách ví von so sánh “xanh như ngọc” khiến khu vườn nơi Vĩ Dạ giống như một viên ngọc bích khổng lồ vừa thanh khiết vừa cao sang.Đó là một chốn “nước non thanh tú” của quê hương xứ sở

- Mặt chữ điền tạo nên một cấu trúc cân xứng hài hòa trong bức tranh thôn Vĩ mang vẻ đẹp phúc hậu, chất phác kín đáo, cũng có thể hiểu là khuôn mặt tự họa của Hàn Mặc Tử , là cuộc sống trở về trong tâm tưởng của nhà thơ: Khao khát cháy bỏng, mãnh liệt của Hàn Mặc Tử muốn được trở về, hòa nhập, được giao cảm với cuộc đời

* So sánh nét tương đồng và điểm khác biệt giữa hai đối tượng trên hai bình diện: nội dung và hình thức nghệ thuật (sử dụng chủ yếu thao tác phân tích và so sánh)

- Điểm tương đồng:

  • Cả hai đoạn thơ đều là cái nhìn đầy tình cảm của cái tôi trữ tình về thiên nhiên, con người nơi mình từng gắn bó sâu nặng
  • Đều mang khát vọng hòa nhập với cuộc đời
  • Cái tôi lãng mạn đã vẽ nên khung cảnh tươi trẻ
  • Qua hai đoạn thơ, ta nhận thấy rõ sự tài hoa của tác giả

- Điểm khác biệt:

  • Đoạn thơ về Vội vàng miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong phát hiện mới của nhà thơ: cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất, trên cái nền của mùa xuân sự sống đang dâng trào, căng đầy đang dâng hương tỏa sắc, Xuân Diệu đã diễn tả cuộc sống bằng tất cả niềm say mê rạo rực của trái tim mình trong hình ảnh mới lạ, ngôn ngữ gợi cảm, đầy táo bạo với nhiều biện pháp tu từ đặc sắc (nhân hóa, so sánh, …)
  • Đoạn thơ về Đây thôn Vĩ Dạ lại cho thấy nỗi khắc khoải của thi nhân muốn tìm sợi dây liên kết, mong muốn được giao cảm với cuộc đời với nghệ thuật trước hình ảnh thiên nhiên miền thôn Vĩ nhẹ nhàng, tinh khôi , trong trẻo : Bút pháp lãng mạn trữ tình, ngôn ngữ cực tả, trong sáng súc tích, những hình ảnh thơ giàu sức gợi, Các biện pháp tu từ: Câu hỏi tu từ, phép điệp, so sánh..Đó là tâm thế của người mang lòng yêu sống, đau đáu hướng về cuộc đời nhưng lại không thể có được cảm giác được gắn bó

* Lí giải sự tương đồng và khác biệt:

+ Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử đều là những nhà thơ tài hoa, lãng mạn

+ Ở Xuân Diệu, đó là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, là nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu với hình thức nghệ thuật từ ngữ, giọng điệu, nhịp điệu thơ táo bạo, ảnh hưởng đậm nét ở phương Tây. Ông được mệnh danh là ông hoàng thơ tình

+ Ở Hàn Mặc Tử: đó là một hiện tượng thơ kì lạ bậc nhất của phong trào thơ mới, là hồn thơ đan xen tinh khiết trong sáng và những hình ảnh ma quái cuồng loạn.Hơn thế nữa, trong hoàn cảnh Hàn Mặc sáng tác bài thơ là sự đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần vì bệnh tật

=> Dưới bút pháp và phong cách nghệ thuật khác nhau mà Xuân Diệu cũng nhưng Hàn Mặc Tử vẽ nên bức tranh thiên nhiên đầy độc đáo và khác lạ. Với Vội vàng , đó là cảnh sắc thiên nhiên non trẻ, đầy ắp sắc xuân của một "bữa tiệc trần gian đặc biệt mới lạ - 1 thiên đường trên mặt đất" nhưng cũng đem đến sự dặt dìu luyến tiếc vì sự lo sợ chóng phai dưới sự bùng nổ về cái tôi cá nhân trong thơ mới, một tuyên ngôn nghệ thuật về quan niệm sống tận hưởng vẻ đẹp tươi của cuộc sống.Còn Hàn Mặc Tử, thiên nhiên lại hiền hòa, nhẹ nhàng mang đậm dấu ấn miền quê . Tuy nhiên, thơ Hàn Mặc Tử là sự đan xen thanh khiết, trong sáng và những hình ảnh ma quái, cuồng bạo, thiên nhiên ấy lại có sự đổi thay trước tâm tư tình cảm của chủ thể trữ tình, thiên nhiên tươi đẹp bỗng ngỡ ngàng phủ kín nỗi buồn thi nhân.Chính dấu ấn đặc sắc mang màu sắc rất riêng trên nền tảng của sự tài năng, của những tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, cuộc sống và trái tim thấm đẫm tình đời, tình người đã đem đến cho độc giả bức tranh thiên nhiên trong chiều sâu cảm nhận đồng thời cũng cùng hòa nhịp đập với tâm hồn đáng trân trọng

c. Kết bài:

- Khát quát những nét giống và khác nhau tiêu biểu

- Nêu những suy nghĩ của bản thân

  • Mỗi đoạn thơ cho thấy được tài năng của Hàn Mặc Tử và Xuân Diệu
  • Nó cũng cho ta thấy được vẻ đẹp của hai con người trong những hoàn cảnh khác nhau làm nên phong cách nghệ thuật – vị thế đứng của mỗi nhà thơ trên thi đàn văn học Việt Nam, góp phần làm phong phú cho kho tàng thơ ca Việt Nam.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy so sánh bức tranh thiên nhiên trong Vội vàng và Đây thôn Vĩ Dạ bằng một bài văn ngắn.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Thiên nhiên luôn là chủ đề trong các tác phẩm văn học của các nhà văn và nhà thơ nổi tiếng. Đây thôn Vỹ Dạ (Hàn Mạc Tử) và Vội Vàng (Xuân Diệu) cũng là hai bài thơ trữ tình nói nên vẻ đẹp thiên nhiên.

Xuân Diệu đã bao lần tìm đến thiên nhiên để hòa mình vào đó, để cảm nhận từng khoảnh khắc, từng chuyển biến tinh vi của nó. Đến Vội vàng ông vẫn kịp ghi lại cho mình những khoảnh khắc thiên nhiên đặc biệt: đẹp đẽ, tươi non, mơn mởn nhựa sống nhưng cũng có cả sự mất mát, chia lìa. Sở dĩ có điều trái ngược ấy là vì thiên nhiên đóng vai trò như những “dẫn chứng” trong lời tranh biện của nhà thơ về cuộc đời, thời gian. Tuy nhiên, thiên nhiên trong bài thơ vẫn hiện ra với những nét độc đáo, riêng có ở Xuân Diệu.

Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, non xanh, mơn mởn, căng tràn nhựa sống trong khoảng khắc xuân thì. Vốn bắt nguồn từ hai ước muốn rất ngông cuồng, táo bạo là tắt nắng, buộc gió để giữ chặt hương sắc của cuộc đời, bức tranh thiên nhiên hiện lên là minh chứng cho điều khát khao đó.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Xuân Diệu vẽ nên một bức tranh có sự pha trộn của nhiều hình ảnh, nhiều trạng thái, nhiều dáng vẻ để có một “bữa tiệc trần gian” ngập tràn hương sắc mùa xuân. Bằng thủ pháp liệt kê, nhà thơ mang tới những hình ảnh: ong bướm, hoa đồng nội, lá cành tơ, yến anh, ánh sáng… chẳng thuộc về một vùng quê nào, nhưng lại thuộc về bất cứ đâu, hiện hữu ngay xung quanh chúng ta. Vấn đề là ở chỗ đó, thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu ai cũng bắt gặp, ai cũng thấy quen thuộc như ở cuộc đời trần thế hằng ngày vẫn có vậy. Không xa lạ, không sang trọng mà gần gũi, quen thuộc, ai cũng thấy ở ngoài đời.

Bởi vậy trong cách miêu tả, Xuân Diệu không dùng đến những thủ pháp cầu kì, khoa trương, mà chỉ đơn thuần ông thổi hồn sức sống của vạn vật bằng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của nó. Ong bướm trong thời khắc tuần tháng mật, hoa đồng nội trong lúc xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh trong khúc tình si. Đó là khoảnh khắc của mùa xuân, của tình yêu thật viên mãn, tròn đầy. Thiên nhiên bởi thế mà lung linh, đẹp đẽ, tươi non ở mức độ căng tràn sức sống nhất. Xuân Diệu đã đưa cặp mắt “xanh non, biếc rờn” của mình để thổi cải cảm xúc “thiết tha, rạo rực” được huy động từ mọi giác quan và lăng kính tình yêu để làm nên sức sống ấy cho cảnh vật. Giọng thơ sôi nổi, phấn trấn như chiếc bút vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ giữa chốn trần gian. Điệp từ của, này đây như bàn tay vẫy chào, mời gọi cùng bước vào chốn thiên đường của mặt đất ngay trước mắt chúng ta. Không ngạc nhiên khi gọi Xuân Diệu là con người của trần thế, bởi ngay cả bức tranh thiên nhiên ở đây cũng vô cùng trần thế mà chẳng phải chốn bồng lai tiên cảnh nào quá xa xôi.

Miêu tả vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên như thế, Xuân Diệu đã gửi gắm những giá trị, ý nghĩa mang tính triết lý nhân sinh. Đừng mải mê tìm kiếm ở đâu xa xôi, chỉ cần mỗi chúng ta hãy sống hết mình, cảm nhận hết mình sẽ thấy được cảnh đẹp ở ngay những gì ta có. Và cũng còn bởi một lý do, con người mới thực sự làm cho thiên nhiên trở nên thêm đẹp. Ông đã khéo léo trong cách so sánh để khẳng định thước đo cho cái đẹp không còn thuộc về tự nhiên, mà chính là con người.

“Này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”

Ánh sáng của buổi bình minh như cái chớp hàng mi của người thiếu nữ, tháng giêng “ngon” như một nụ hôn say đắm của tình nhân. Chưa bao giờ thơ ca lại có góc nhìn thẩm mĩ đặc biệt như thế. Thiên nhiên bấy lâu nay là chuẩn mực cho mọi cái đẹp, mà giờ đây cũng trở nên nhỏ bé trước con người. Bởi vậy, vẻ đẹp thiên nhiên trong Vội vàng mang theo ý nghĩa đề cao con người và khẳng định ý nghĩa mang tính triết lý nhân sinh.

Nhưng vẫn còn một thiên nhiên khác trong Vội vàng. Nếu bức tranh thiên nhiên như chốn thiên đường của mặt đất kia khiến mỗi chúng ta thêm yêu, thêm gắn bó, thêm động lực để tiếp tục sống, thì trước quy luật thời gian thiên nhiên cũng phải lụi tàn. Không còn đẹp đẽ, mơn mởn, xanh non mà thời gian cuốn theo tất cả, một đi không trở lại, nên lòng người ngậm ngùi thì thiên nhiên cũng tan tác, chia lìa. Cảm thức đầy mất mát trong quan niệm về thời gian của Xuân Diệu đã khiến ông nhìn đâu cũng thấy không còn gắn kết nữa. Khi mà xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua, xuân non rồi xuân gìa… thì đâu đó thi nhân ngửi thấy mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, nghe thấy núi sông than thầm tiễn biệt… Thiên nhiên trong sự biệt li vẫn có cái đẹp, nhưng thực chất nó là nỗi niềm run rẩy, lo lắng, sợ hãi trước quy luật tàn nhẫn của thời gian mà tác giả đã lí luận. Nhà thơ không chấp nhận sự thay thế, bởi con người cũng chỉ có một lần để sống, tuổi trẻ lại quá ngắn ngủi mà cũng chẳng hai lần thắm lại. Thiên nhiên cũng thế! Nên nỗi xót xa, tiếc nuối của thi nhân là không tránh khỏi. Để từ đó mà biết trân trọng từng phút giây, biết nâng niu từng khoảnh khắc, không bỏ lỡ sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cánh bướm tình yêu… để hưởng trọn cái xuân hồng mà phải cắn mới đã đầy, no nê được. Vẻ đẹp của thiên nhiên găn liền với quan niệm sống vội vàng của nhà thơ, cũng là phương tiện để nhà thơ bộc lộ cách sống ấy.

Nếu như thiên nhiên trong vội vàng là một bức tanh của tuổi trẻ thì bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vỹ Dạ là một tình yêu sự nhớ nhung người yêu.

"Đây thôn Vỹ Dạ" là bài thơ được ghi sau một bức ảnh được gửi từ người con gái xứ Huế. Khi ấy Hàn Mạc Tử đang ở Quy Nhơn dưỡng bệnh. Nỗi nhớ mong, hoài niệm về con người và thiên nhiên xứ Huế, Hàn Mạc Tử đã viết bài thơ tuyệt đẹp này.

Thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" dường như cũng mang nhiều gam màu, nhiều cung bậc lẫn lộn trong chính cảm xúc của nhà thơ.

Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ người "khách xa" sao lâu nay không về Huế chơi:

“ Sao anh không về chơi thôn Vỹ”

Tứ thơ thật đẹp, thật tinh tế và ẩn chứa nội dung sâu xa. Nỗi nhớ về Huế được tác giả gửi gắm qua lời trách yêu nhẹ nhàng này. Hàn Mạc Tử đã dẫn dụ người đọc khám phá một bức tranh xứ Huế nhiều nét đẹp riêng.

---(Để xem đầy đủ nội dung của Bài văn mẫu số 1 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)---

 

3.2. Bài văn mẫu số 2

Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong sự nghiệp sáng tác đã từng quan niệm “thơ hay là thơ giản dị xúc động và ám ảnh”. Đúng như vậy cũng như bao môn nghệ thuật khác, thơ ca giúp con người trải nghiệm cuộc sống với những cung bậc tình cảm sâu sắc và một thế giới nghệ thuật độc đáo. Một bài thơ, một đoạn thơ hay chỉ một vần thơ hay luôn là những dòng cảm xúc đầy sức gợi cảm ơn sâu những câu những chữ đặc sắc, mới mẻ và gần gũi. Nó cuốn hút giữa chân độc giả với một sức mê hoặc đến lạ thường, có lẽ vậy nên trong bài thơ sổ tay thơ nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết.

“Câu thơ hay như người con gái đẹp,

Ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”.

Minh chứng rõ nhất cho điều đó chính là sáng tác của các nhà thơ mới tiêu biểu là bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu và “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Lamartine đã từng tâm sự “Thế nào là thơ Nó không chỉ là một nghệ thuật nó là sự giải thoát của lòng tôi”. Thơ chính là thể loại văn học được viết lên bằng cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ, dưới một hình thức nghệ thuật phù hợp. Câu thơ hay tức là câu thơ có sức hấp dẫn lôi cuốn và gợi trong lòng độc giả những rung động sâu xa không cần lý giải gì nhiều. Chế Lan Viên đã đưa ra một hình ảnh so sánh khiến người đọc cảm nhận được mọi điều đó. “Câu thơ hay như người con gái đẹp”, sự so sánh đã chỉ ra chuẩn mực của thơ. Nếu như vẻ đẹp của người con gái là sự dung hòa giữa cái đẹp ngoại hình và cái đẹp tâm hồn, thì “thơ hay” là thơ mang vẻ đẹp độc đáo về hình thức và mang nhiều ý nghĩa về nội dung. Chính vì vậy nên “ở đâu, Đi đâu cũng lấy được chồng”. Chế Lan Viên đã khẳng định bao giờ và ở đâu nhưng những vần thơ hay sẽ vẫn luôn nhận được sự yêu thích, tìm được tiếng nói tri âm, như vậy từ ý thơ trên Chế Lan Viên đã đưa ra được yếu tố tiên quyết đem đến sự thành công của một thi phẩm, sức sống của thi phẩm đó trong lòng độc giả chính là cái đẹp hình thức và nội dung thước đo muôn đời của một tác phẩm thơ hay.

Ý kiến của Chế Lan Viên quả thực là một nhận định đúng đắn. Bởi nó xuất phát từ đặc trưng của thơ và quy luật tiếp nhận thơ ca. Thơ xuất phát từ tình cảm, cảm xúc là tiếng nói của trái tim, là sự rung động mạnh mẽ của thi sĩ trước cuộc đời. Nếu không có cảm xúc nhà thơ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn tử sẽ là những xác chữ làm vô hồn trên trang giấy. Nói như Ngô Thì Nhậm “ hãy xúc động hơn thơ Cho ngọn bút có thần”. Còn Xuân Diệu lại khẳng định “ thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”. Văn học phản ánh cuộc sống con người, với thơ ca nó không chỉ là hiện thực ngoài kia mà là những tình cảm cảm xúc bên trong tâm hồn của nhà thơ bởi “thơ là người thư kí trung thành của trái tim”. Tuy nhiên không phải tình cảm nào cũng làm nên thơ những thứ tình cảm nhạt nhẽo vô vị cưỡng ép bắt buộc không thể làm nên thơ. Tình cảm của người nghệ sĩ phải mãnh liệt nhất, thôi thúc họ cầm bút sáng tạo đó mới chính là những vần thơ cao quý. Mặt khác, người đọc tìm đến với thơ là đi tìm tiếng nói tri ân tri kỷ, là giao phó tình cảm cảm xúc là một “ hồn điệu đi tìm những hồn đồng điệu” vì vậy nội dung tư tưởng cũng như tình cảm cảm xúc mãnh liệt mới có thể lôi cuốn người đọc, ngược lại thơ sẽ thiếu sức sống đánh mất đi chức năng cao quý của nó. Và để làm nên một bài thơ hay không thể thiếu được sự công phu, tinh tế trong nghệ thuật biểu hiện, hay nói cách khác đó chính là một hình thức nghệ thuật độc đáo cuốn hút bởi một tác phẩm nghệ thuật chân chính bao “giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. đáp ứng được những điều đó thì chắc chắn đó là một thi phẩm hay đẹp và mang đầy ý nghĩa. “Vội vàng” của Xuân Diệu và “ Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử xứng đáng là những bài thơ hay một người con gái đẹp về cả bên ngoài hình thức và bể sâu tâm hồn.

Xuất hiện trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, với một phong cách độc đáo đặc biệt từng câu từng chữ mà ông viết ra xứng đáng là “người con gái đẹp”. Bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, cùng với cảm xúc dạt dào Xuân Diệu đã lay động trái tim người đọc bằng những ca từ về tình yêu về mùa xuân trần thế. “Vội Vàng” là một trong những thi phẩm như vậy, ấn tượng đầu tiên của độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với một tình yêu cuộc sống đến ta thiết của thi sĩ muốn “ tắt nắng”, “ buộc gió” để lưu lại mãi hương sắc của cuộc sống trần gian.

“Tôi muốn tắt nắng đi,

Cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”.

Ước muốn thật táo bạo, mạnh mẽ thậm chí còn có phần ngông cuồng của thi sĩ. Nhà thơ muốn tắt nắng cho màu sắc đừng phai mờ, muốn buộc gió cho hương hoa đừng bay đi, nhà thơ muốn tước đoạt quyền của tạo hóa của ông trời. Nhưng suy cho cùng thì ước muốn đó lại bắt nguồn từ chính tình yêu cuộc sống tha thiết đến, mãnh liệt.

Xuân Diệu yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên nhìn thế giới như một khu vườn trên mặt đất với cảm xúc say mê bằng cặp mắt tinh tế xanh non biếc rờn mọi cái đẹp đều như được thu nhỏ trong từng câu từng chữ có lẽ đây chính là nguyên nhân để Xuân Diệu có những ao ước táo bạo như trên.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất,

Của yến oanh,

Này đây khúc tình si,

Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”.

Mùa xuân ong bướm đi tìm mật, phất phơ với đôi cánh mỏng vui vẻ như đang ở tuần trăng mật của con người vậy Xuân Diệu lại nhìn đến những nhành hoa nhỏ nhắn đẹp đẽ đang bung nở trên một tấm thảm xanh gì nơi đồng nội mát mẻ. Rồi nhà thơ lại bị thu hút bởi những cành cây non tơ vừa mới nhú ra khỏi cành. Nó như đang đu đưa trước gió để tận hưởng mọi vẻ đẹp của mùa xuân trên cái nền đầy màu xanh mát lạnh ấy, đâu đó cất lên tiếng hót vang như dàn nhạc của chim Yến oanh làm cho cảnh đẹp này còn đẹp hơn nữa, còn sống động hơn nữa. Mùa xuân đến còn đem theo thứ ánh nắng ấm áp như cặp môi, đôi mi của người con gái làm cho nhà thơ như đang sống trong tiên cảnh phải thốt lên rằng.

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn đã cảm nhận được tất cả những tinh tui đẹp đẽ nhất trưa nay người ta cứ tưởng cõi tiên phải ở nơi xa, nhưng Xuân Diệu qua đây đã cho mọi người thấy rằng cõi tiên ở ngay trên mặt đất nơi chúng ta đang sống. Điều quan trọng là mỗi người có cảm nhận được điều đó hay không.

Người con gái đẹp, cũng có lúc vui vẻ tràn đầy sức sống, cũng như một câu thơ hay có lúc thăng hoa nhưng cũng có lúc suy tư chiêm nhiệm. Bên cạnh những câu thơ hay về niềm vui trước cuộc sống của mùa xuân thì vội vàng còn là sự nuối tiếc trước thời gian chảy trôi không ngừng trong khi tuổi xuân đời người lại hữu hạn ngắn ngủi.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất,

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại”.

Nếu như người xưa cho rằng thời gian là tuần hoàn Đông qua, Xuân tới, quá trẻ sang già, hết kiếp này sang kiếp khác đó là điều đương nhiên. Nhưng đối với Xuân Diệu, ông nhìn sao thời gian trôi trẩy tuyến tính, một đi không trở lại đời người hữu hạn so với thời gian vô hạn đã gắn Tuổi Trẻ của con người so với nó lại càng ngắn ngủi hơn Xuân Diệu đã lấy tuổi trẻ làm thước đo của thời gian khiến người đọc như cảm thấy rơi vào sự suy tư lo lắng. Thời gian cứ trôi vạn vật cứ xa dần với cuộc sống. Nếu như trên coi là bức tranh mùa xuân xanh non, tình tứ thì bây giờ sự nhắn lại bao trùm khắp cảnh vật.

“Mùi tháng năm đều thắm vì chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt,

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi,

Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,

Phải chăng hờn độ phai tàn sắp sửa,

Chẳng bao giờ tôi chẳng bao giờ nữa”.

Đoạn thơ như là tiếng than, tiếng thở dài sự nuối tiếc lo lắng về sự chảy trôi của thời gian, lan cả ra những thứ vô tri vô giác. Xuân Diệu như đang cảm nhận được tất cả đều sợ sệt trước sự tuyến tính vô tình của thời gian.

Cảnh vật thì lúc nào cũng đẹp nhưng thời gian cứ không ngừng trôi, con người không thể mãi mãi níu giữ thời gian mà chỉ đành phải chấp nhận. Thế nhưng không phải là không có cách, không phải là bất lực buông xuôi, để khống chế được điều đó Xuân Diệu đã khao khát giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế. Chỉ có như vậy con người mới có thể sống vui sống hạnh phúc chỉ có nhanh vội vàng thì cái đẹp mới không bị trôi đi lãng phí.

“Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,

Và non nước và cây và cỏ dại,

Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi,

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

Đầu tiên để ôm, để tận hưởng trọn vẹn được cuộc sống, sau đó là “siết”, để đi sâu kỹ càng, tiếp đó là “thâu” để say đắm, tràn ngập Xuân Diệu không đơn thuần chỉ nhìn cái bên ngoài mà còn phải cảm cái bên trong cho đến khi đã đẩy chếnh choáng, no nê. Nhưng vậy thôi vẫn chưa đủ cái khoái cảm cái bộc lộ trực tiếp mãnh liệt nhất của Xuân Diệu chính là “cắn”. Có người từng nhận xét Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như “hưởng thụ ái tỉnh”. Điều đó quả không sai và qua đây ta đã thấy rõ sự cảm nhận đó thật khác lạ mới mẻ táo bạo đến mãnh liệt.

Người con gái đẹp bên cạnh tâm hồn đẹp còn là cái đẹp về hình thức, nó cũng như Thơ. Thơ hay và thơ phải có cái đặc sắc về hình thức, bên cạnh cái ý nghĩa của nội dung và thiết tha ở tình cảm. Cái đẹp ở hình thức mà không được bộc lộ thì có mà gửi gắm được nội dung đến với người đọc. vội vàng quả thực là người con gái đẹp bởi không chỉ hàm chứa Nội dung sâu sắc mà còn có hình thức phù hợp đặc sắc. Điều đó thể hiện trước hết ở việc lựa chọn thể thơ tự do, với các dòng thơ dài ngắn không đều nhịp, thơ thay đổi linh hoạt phù hợp diễn tả cảm xúc sôi nổi dâng trào của thi sĩ. Hơn nữa bài thơ được cấu trúc theo lối triết luận vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt cháy bỏng, vừa logic chặt chẽ. Cuối cùng ngôn ngữ thơ vừa chính xác vừa mới mẻ táo bạo sử dụng nhiều động từ mạnh, các tính từ miêu tả kết hợp với các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ liệt kê, bút pháp tương giao làm nên vẻ hoàn thiện, hoàn mỹ của bài thơ.

---(Để xem đầy đủ nội dung của Bài văn mẫu số 2 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)---

-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----

ADMICRO
NONE
OFF