OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
YOMEDIA

Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng

20/01/2022 1.09 MB 403 lượt xem 2 tải về
Banner-Video
https://m.hoc247.net/docview/viewfile/1.1.114/web/?f=https://m.hoc247.net/tulieu/2022/20220120/425535188831_20220120_154804.pdf?r=3066
ADSENSE/
QUẢNG CÁO
 
Banner-Video

Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh lớp 12 nhằm giúp các em cảm nhận được một tâm hồn nồng nàn tình yêu cuộc sống, một trái tim sôi nổi trẻ trung, một tài năng xuất sắc, một nghệ sĩ đa tình. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Vội vàng.

 

 
 

1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý

2. Dàn bài chi tiết

a. Mở bài:

- Việc sáng tác ra một tác phẩm có sức hấp dẫn với độc giả chưa bao giờ là dễ dàng và không phải bất cứ ai cũng có thể làm được điều kỳ diệu ấy.

- Thế mà Xuân Diệu, không hổ danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới giai đoạn 1932-1945, đã tạo nên một sức hấp dẫn mới lạ trong bài thơ Vội vàng của mình.

b. Thân bài:

- Khao khát điều khiển chi phối thiên nhiên "tắt nắng", "buộc gió" => Cái tôi vừa ngông cuồng vừa hồn nhiên làm nên đặc sắc cho toàn bài.

- Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân => Liên tưởng đến vẻ đẹp của tình yêu, tuổi trẻ. Hình ảnh gợi cảm "ánh sáng chớp hàng mi", trong ánh mắt đa tình của Xuân Diệu, vẻ đẹp của thiên nhiên và con người giao hòa với nhau, tạo nên khoảnh khắc tuyệt đẹp.

- Sự liên tưởng, độc đáo, mới lạ "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần" => Vẻ đẹp mùa xuân căng tràn sức sức tựa đôi môi người thiếu nữ tuổi đôi mươi.

- Quan niệm sống mới: Hạnh phúc hiện diện ngay bên cạnh chúng ta, từ những gì đơn giản, gần gũi nhất

+ Tư tưởng hoài xuân giữa mùa xuân, quan niệm về thời gian, về cuộc đời

+ Nỗi buồn lo và nuối tiếc về việc tuổi trẻ, về mùa xuân, sợ chúng sẽ nhanh chóng vụt qua mất.

+ Từ đó, Xuân Diệu hướng tới một chân lý sống mới, sống "vội vàng" để tận hưởng hết những vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời, không được để lãng phí bất kỳ giây phút nào.

c. Kết bài:

- Thứ nhất là từ bức tranh thiên nhiên thực sự hấp dẫn tâm hồn độc giả, từ ấy dễ khiến người ta liên tưởng đến bức tranh tình yêu, bức tranh cuộc sống thật nồng nàn, rực rỡ của tuổi trẻ.

- Thứ hai là từ những quan điểm về thời gian, về cuộc đời về chân lý của cuộc sống đầy mới lạ hấp dẫn.

- Thứ ba là đến từ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông, đáng lưu ý nhất là những hình ảnh, những liên tưởng đầy sáng tạo và có phần táo bạo đã góp phần làm cho Vội vàng trở nên đặc biệt hơn cả.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Em hãy phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng dưới dạng một bài văn ngắn.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Việc sáng tác ra một tác phẩm có sức hấp dẫn với độc giả chưa bao giờ là dễ dàng và không phải bất cứ ai cũng có thể làm được điều kỳ diệu ấy. Thế mà Xuân Diệu, không hổ danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới giai đoạn 1932-1945, đã tạo nên một sức hấp dẫn mới lạ trong bài thơ Vội vàng của mình. Thơ ông chẳng phải viết về một cái gì cao xa bay bổng, mà rất thực tế viết về cái khao khát thực tại của con người. Thông qua đó những quan niệm, những chân lý sống của ông dần được bày tỏ trong bài thơ. Người ta đọc lần một, lần hai rồi càng đọc càng thấm, càng đọc càng thấy hay. Đó là nhờ sức hấp dẫn lạ kỳ từ những vần thơ tự do và nồng nàn, nhiệt huyết của Xuân Diệu.

Ngay từ 4 câu thơ đầu, người ta đã có cảm nhận được sức hút mới mẻ của bài thơ. Xuân Diệu chẳng đi vào lối mòn xưa cũ, ông không chấp nhận bị thiên nhiên khống chế, chi phối mà thay vào đó chính bản thân ông lại có có suy nghĩ điều hành ngược lại tạo hóa, của một hồn thơ với cái "tôi" giao hòa giữa sự ngông cuồng và sự hồn nhiên. Xuân Diệu khao khát nắm giữ, khống chế tạo hóa, ông muốn "tắt nắng", "buộc gió" để màu đừng nhạt mất, để hương đừng bay đi. Thế mới hiểu, Xuân Diệu yêu thích và trân trọng từng khoảnh khắc xinh đẹp của vạn vật trong trời đất đến thế nào, nên mới có suy nghĩ lạ lùng, táo bạo như vậy.

Đến những vần thơ tiếp, người ta lại thấy một hồn thơ thật nồng nàn, thật bay bổng, lãng mạn và tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ, của con người đang yêu. Trong đôi mắt của nhà thơ, vạn vật đều thật tươi đẹp tràn đầy sức sống, nào ong bướm vui "tuần tháng mật", hoa khoe sắc rực rỡ trong đồng nội một màu "xanh rì", rồi thì "lá của cành tơ phơ phất". Điểm tô cho bức tranh muôn màu rực rỡ ấy là tiếng chim yến chim anh đang ngợi ca mùa xuân với "khúc tình si" đầy mê say. Mỗi buổi thức dậy là một niềm vui tựa như "thần Vui hằng gõ cửa", ánh nắng mặt trời trong đôi mắt đa tình, lãng mạn của Xuân Diệu chỉ thật đẹp khi nó chiếu lên rèm mi khép hờ của cô gái trẻ, đó là một hình ảnh rất đỗi gợi cảm, hướng người ta đến cảm giác yêu đương ngọt ngào, đó là cảm giác tươi trẻ tuyệt vời biết mấy.

Thơ Xuân Diệu câu nào cũng xanh non, biếc rờn. Song ấn tượng nhất, tươi đẹp nhất vẫn là câu: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Ở đây, nhà thơ có sự so sánh thật táo bạo, thiên về cảm giác, gây được ấn tượng mạnh cho người đọc. Dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân tựa hồ như một cô gái kiều diễm, hồng hào, tình tứ, đầy hấp dẫn... Ở đây, con người là một thiếu nữ - sản phẩm kỳ diệu của tạo hóa, được Xuân Diệu coi là chuẩn mực cho một vẻ đẹp trên thế gian này. Xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ ấy, Xuân Diệu sáng tạo ra nhiều câu thơ khỏe khoắn, mới lạ đầy sức hấp dẫn:

... Lá liễu dài như một nét mi

Hơi gió thở như ngực người yêu dấu...

Như vậy, bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời, vạn vật có nhiều điểm khác lạ so với các nhà thơ cũ, ông phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi bình dị quanh ta đây biết bao điều mới lạ thật đáng yêu đáng quý.

Cuộc đời là thế! Thật đẹp và hấp dẫn nhưng không ai có thể sống mãi mãi để tận hưởng mọi lạc thú. Năm tháng chảy trôi tuổi xuân một đi không bao giờ trở lại, đúng là thời gian ăn cuộc đời.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Cách thức trình bày của Xuân Diệu là chống lại quan niệm của thơ cũ. Trong thơ xưa, quan niệm thời gian là tuần hoàn. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng liên tục tái diễn, hết vòng này phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian. Bác bỏ quan niệm khác là thời gian tuyến tính. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là vĩnh viễn mất đi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, biện chứng về thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Cho nên, thi sĩ đã không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Thực ra, thơ xưa không ít bài than thở về sự hạn hữu của tiếp người. Cổ nhân từng coi đời người trôi qua nhanh chóng chẳng khác gì bóng ngựa qua cửa sổ. Nhưng người xưa không vì thế mà hoảng hốt. Họ quan niệm vũ trụ sẽ nhập thêm vào cái vĩnh cửu của đất trời. Người của thời đại, của Thơ mới, Xuân Diệu chỉ thấy thời gian một đi không trở lại và vũ trụ là thế giới khách thể độc lập với con người. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân, nhà thơ cảm nhận thấm thía hơn ai hết sự thật đáng buồn: Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại; cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.

Đến đây, cái tươi vui rạo rực ở phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn nuối tiếc không nguôi cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây chẳng qua là một cách biểu hiện khác của lòng ham sống, lòng yêu đời thiết tha, say đắm. Tình cảm mãnh liệt này đã được diễn đạt một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, mà ít nhiều ta đã gặp ở phần đầu bài thơ:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời sống cá thể đều vi cùng quý giá. Phải chăng vì ý thức rất rõ không có gì ngăn cản được bước đi của mùa xuân - của đời người, nên trong tâm tưởng thi sĩ: Cảnh xuân càng trở nên lộng lẫy - cuộc đời càng đáng sống đáng yêu bội phần?

Điều này giải thích thái độ ngông cuồng của tác giả muốn đoạt quyền của tạo hóa để tắt nắng, buộc gió ở đầu bài thơ.

Và đương nhiên, khát vọng này không bao giờ có thể thành hiện thực. Nhà thơ ham sống cũng phải tuân theo quy luật khắc nghiệt của đất trời. Do đó, chỉ còn một cách duy nhất là phải sống vội vàng sống cuống quýt, tận dụng cao độ từng giây, từng phút, của tuổi thanh xuân. Ý tưởng táo bạo này được diễn tả một cách thật mới mẻ qua đoạn thơ cuối bài:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Có thể thấy cảm xúc tràn trề ào ạt đã khiến Xuân Diệu tìm đến một phép sử dụng ngôn từ khá đặc biệt. Đó là tạo ra những làn sóng ngôn từ đan xen nhau, cộng hưởng nhau theo chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào. Trong đó việc phối hợp các hệ thống trùng điệp, lối vắt câu đã tạo nên giá trị thẩm mĩ độc đáo cho bài thơ.

Toàn bộ phần thơ cuối này được tổ chức thành tiếng lòng của nỗi khao khát mãnh liệt. Tiếng lòng ấy là một chuỗi điệp cú, hình thái thì điệp nguyên vẹn còn động thái và cảm xúc thì điệp lối tăng tiếng: Ta muốn ôm, Ta muốn riết Ta muốn say, Ta muốn thâu và cuối cùng Ta muốn cắn, vì vậy tính cao trào thể hiện khá rõ.

Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của hệ thông điệp từ khác: liên từ - và non nước, và cây, và cỏ rạng; giới từ điệp nguyên vẹn, gắn với những trạng thái càng lúc càng mãnh liệt: cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê...

Ngoài ra, phải để đến hệ thống những tính từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm say, những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ tạo ra những hình ảnh từ, quyến rũ: bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cái hôn nhiều, cỏ rạng, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng...

Tất cả những phương tiện ngôn ngữ và phương diện ngôn từ ấy được dùng thuần thục tinh vi, chuyển tải được nhuần nhuyễn những tình ý mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, chứng tỏ một Xuân Diệu ngay từ khi còn trẻ đã là một bậc thầy về tiếng Việt.

Vội vàng đúng là bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát được giao cảm với đời. Tuy có thể còn những cách cảm nhận tác phẩm khác nhau nhưng nhìn chung, bài thơ đã giúp phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống, biết tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không trở lại. Có lẽ chính điều này đã tạo nên tính hấp dẫn của bài thơ.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Xuân Diệu nổi tiếng trong làng Thơ mới thời kì 1930- 1945. Thi sĩ đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một hơi thở mới, luôn trẻ trung, nồng nàn, rạo rực của một trái tim sôi nổi, đa tình. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh đã viết: “Thơ Xuân Diệu... là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”.

Bài Vội vàng được rút trong tập Thơ- thơ (1938), đây là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất phong cách nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu.

Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng muốn giữ lại mãi cái thế giới tươi đẹp muôn màu:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Đó là một khát vọng muốn cho thời gian ngừng trôi, muốn níu giữ mãi những gì tươi đẹp ở bên mình, hay nói cách khác, muốn “vĩnh cửu hóa” cái đẹp, để cho thi sĩ tôn thờ, thưởng thức.

Đó là cái cảm xúc thường thấy trong làng thơ lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Chế Lan Viên không thích mùa xuân, vì muốn “vĩnh cửu hóa” cái buồn của mùa thu:

Ai hay trở lại mùa thu trước

Nhặt lấy cho tôi những lá vàng

Với những bông hoa muôn cánh rã

Về đây đem chắn nẻo xuân sang.

Với Xuân Diệu lại khác: thi sĩ muốn đoạt quyền của tạo hoá, “muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại”, để cho hương sắc của mùa xuân “đừng bay đi”. Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó một cách đầy chất thơ.

Cuộc đời trần thế đẹp đẽ và hấp dẫn biết bao! Nhưng không ai có thể được sống mãi mãi để hưởng mọi lạc thú. Năm tháng chảy trôi, tuổi xuân một đi không bao giờ trở lại, đúng là “thời gian ăn cuộc đời”, “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua - Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”. Do đó, người thi sĩ này “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Thực ra, thơ xưa không ít bài than thở về sự hữu hạn của kiếp người. Cổ nhân từng coi đời người trôi qua nhanh chóng chẳng khác gì bóng ngựa qua cửa sổ. Nhưng người xưa không vì thế mà hoang mang hoảng hốt. Họ quan niệm vũ trụ tuần hoàn, thời gian quay tròn trở lại, và con người là một phần tử của vũ trụ sẽ nhập thêm vào cái vĩnh cửu của đất trời. Người của thời đại, của thơ mới, Xuân Diệu chỉ thấy thời gian một đi không trở lại và vũ trụ là thế giới khách thể độc lập với con người. Với sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân, nhà thơ cảm nhận thấm thía hơn ai hết sự thật đáng buồn: “Tuổi trẻ chẳng hai lần thấm lại”; cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.

Đến đây, cái tươi vui rạo rực ở phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn, nuối tiếc khôn nguôi cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây chẳng qua là một cách biểu hiện khác của lòng ham sống, lòng yêu đời thiết tha say đắm. Tình cảm mãnh liệt này đã được diễn đạt một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, mà ít nhiều ta đã gặp ở phần đầu bài thơ:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thì,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Những câu thơ trên đây cùng với những câu thơ trước đó đã góp phần hoàn thiện bức tranh mùa xuân trẻ trung tươi đẹp trong ánh mắt vồ vập đắm say của nhà thơ.

Phải chăng vì ý thức rất rõ không có gì ngăn cản được bước đi âm thầm nhưng vội vã của mùa xuân - của đời người, nên trong tâm tưởng của thi sĩ: cảnh xuân càng trở nên lộng lẫy - cuộc đời càng đáng sống, đáng yêu bội phần?

Điều này giải thích khát vọng ngông cuồng của tác giả, muốn đoạt quyền của tạo hóa, để có thể “tắt nắng” và “buộc gió” khi mở đầu bài thơ. Và đương nhiên, khát vọng này không bao giờ có thể thành hiện thực. Nhà thơ ham sống cũng đành bất lực, rồi cũng phải tuân theo quy luật khắc nghiệt của đất trời. Do đó, chỉ còn có một cách duy nhất là phải sống vội vàng, cuống quýt tận dụng cao độ từng giây, từng phút của tuổi thanh xuân. Ý tưởng táo bạo này được diễn tả một cách thật mới mẻ. Đoạn thơ cuối cùng sau đây chính là sự kết tinh nghệ thuật của toàn bài, thể hiện tập trung những nét nổi bật trong phong cách thơ Xuân Diệu:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, .

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã dày ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Ở đây, từ lối vắt câu, đến nghệ thuật dùng điệp ngữ, từ việc sử dụng nhiều hình ảnh táo bạo thiên về cảm giác, đến nhịp thơ hăm hở sôi trào..., tất cả đều góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say của tác giả. Đúng là “ông muốn thành một cây kim để hút vào mình thiên hạ” như Thế Lữ đã nhận xét.

Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát được giao cảm với đời. Tuy có thể còn những cách cảm nhận tác phẩm khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ đã giúp phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống, biết tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế, và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để biết sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận bởi những năm tháng sống hoài, sống phí.

-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----

ADMICRO
NONE
OFF