Nhằm giúp các em học sinh cảm nhận được bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Học247 mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu dưới đây. Chúc các em học tập thật tốt nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Vội vàng.
1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
- Giới thiệu về bài thơ Vội vàng và vấn đề cần phân tích.
b. Thân bài:
* Thiên nhiên đất trời đã dâng tặng cho con người một bàn tiệc xuân đầy thịnh soạn với bao hương sắc, bao thanh âm tuyệt diệu:
- Cỏ xanh, hoa thơm nơi đồng nội ngát hương, lá non phất phơ trên nhành cây trồng gió nhẹ.
- Từng đàn ong bướm nối đuôi nhau đi ngắm nhìn hoa cỏ mùa xuân, vươn mình trên những nhành hoa xinh đẹp hút mật, ăn sâu
- Khúc nhạc xuân đầy hứng khởi, mê say của những chàng yến anh
=> Vạn vật đều có linh hồn riêng, vận động và tỏa sáng theo cách riêng.
* Cảm xúc của nhân vật trước thiên nhiên tuyệt diệu:
- "Tháng giêng " ngon" tựa cặp môi gần → sự say đắm trước thiên nhiên gợi cảm, duyên dáng.
- Khát khao chiếm hữu mùa xuân cho thỏa nỗi niềm mê say.
c. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu bằng một bài văn ngắn.
GỢI Ý LÀM BÀI
3.1. Bài văn mẫu số 1
Xuân Diệu nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Vần thơ nào của ông cũng thấm đẫm lòng yêu, lòng thiết tha với cuộc sống. Đó là cuộc sống tươi non mơn mởn của thiên nhiên vạn vật. Vội vàng tuy chỉ có dung lượng khá nhỏ đề cập đến khung cảnh thiên nhiên, nhưng chỉ cần như vậy thôi ta cũng nắm bắt được trọn vẹn tinh thần, lòng yêu cuộc sống của ông.
Viết về thiên nhiên, vốn là đề tài vô cùng quen thuộc trong thơ ca Việt Nam và thế giới. Đó là nơi để con người ta trải lòng, trải tâm sự, là nơi để nương tựa, giãi bày hay là để bày tỏ những quan điểm tư tưởng về cuộc sống. Xuân Diệu cũng không nằm ngoài quy luật chung ấy, ông để lại những câu thơ hay, đẹp đẽ về thiên nhiên:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng mảnh
(Đây mùa thu tới)
Và đến Vội vàng ông đã phác họa bức tranh thiên nhiên mởn mơn sức sống, tràn đầy tình xuân.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Bằng thủ pháp điệp cấu trúc “Của … này đây” “này đây … của…” và thủ pháp liệt kê Xuân Diệu đã phơi bày trước mặt người đọc bàn tiệc mùa xuân vô cùng thịnh soạn, ăm ắp hương vị, màu sắc. Phải chăng Xuân Diệu đã căng mở mọi giác quan của mình để cảm nhận đầy đủ và trọn vẹn nhất vẻ đẹp của thiên nhiên vạn vật trong trời đất. Thiên nhiên ấy có màu xanh tươi non, mỡ màng của cỏ (đồng nội xanh rì), có những đàn ong từng đôi, từng đôi nối đuôi nhau trong ngày tháng đầy mật ngọt. Đâu chỉ có vậy, thiên nhiên còn ngập tràn ánh sáng, với khúc tình si vang vọng khắp nơi. Các sự vật hiện tượng đều đang ở độ viên mãn, căng đầy sức sống nhất, trăm hoa đua nở, khoe sắc trước trời đất, không chỉ màu sắc mà còn là âm thanh của khúc tình si. Tình si là gì? Đâu chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn là lòng yêu cuộc đời, muốn hòa nhập, tận hưởng trọn vẹn cuộc đời. Xuân Diệu đã tạo nên một bức tranh mùa xuân hài hòa tuyệt đối.
Thoạt đầu, tưởng rằng thiên nhiên đó phải ngự ở nơi tiên giới, nhưng nhìn lại mới thấy rằng chúng đều là những sự vật, hiện tượng hết sức quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống của chúng ta, là ong, bướm, đồng nội, là ánh sáng của thiên nhiên. Khổ thơ như một lời khẳng định của Xuân Diệu, một quan điểm nhân sinh mới mẻ, tiên cảnh không ở đâu xa, mà chính ở ngay đây, khung cảnh này, hương thơm hoa cỏ này. Chàng trai hai hai tuổi bằng đôi mắt tràn đầy tình yêu, xanh non và biếc rờn hối hả, gấp gáp mở rộng tấm lòng để nắm bắt trọn vẹn từng khoảnh khắc của thiên nhiên.
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian "tháng giêng" so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là "vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân." Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
......
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài "xuất thì bất tái lai". Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: "Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?" Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn... Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng "chẳng bao giờ nữa..." Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời "thơ thơ" thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. "Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm." Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng "tôi" - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống:"Chẳng bao giờ, ôi!
Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ "Ta muốn ôm" được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang đứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân... Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hòa, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng với tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo "Và non nước, và cây, và cỏ rạng." Một trạng thái tham lam, ham hố khô có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dáng dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:" Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi." Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân - tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ "cắn" khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn.
Với bài thơ "Vội vàng", Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu "Thơ mới". Mới lạ nhưng táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. "Vội vàng" đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời "tươi non mơn mởn". Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu - vội vã với nhịp đập của thời gian.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Xuân Diệu là người luôn khát khao giao cảm với đời, Xuân Diệu viết văn, làm thơ rồi đến với Cách mạng rất tự nhiên, chân thành và nồng nhiệt. Ông đã tham gia mặt trận VIệt Minh. Sau Cách mạng tháng 8, ông hăng hái tham gia hoạt động trong các lĩnh vực nghệ thuật gắn bó cả đời với sự nghiệp.
Sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu rất phong phú trong nhiều lĩnh vực: sáng tác thơ, văn xuôi, phê bình văn học...song thơ ca chính là cây cầu giao cảm linh diệu nhất đã bắt nhịp cho trái tim thi sĩ đến với cuộc đời. Trước cách mạng, Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, bởi nguồn cảm xúc dạt dào trẻ trung, sôi nổi với quan niệm nhân sinh mới mẻ giữa những cách tân đầy stạo. Vội vàng được in trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu tay của Xuân Diệu. “vội vàng” là 1 trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng 8. Bài thơ đã thể hiện quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thiên nhiên, cuộc sống, đặc biệt là thời gian.
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa,
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần,
Tôi sung sướng.
Nhưng vội vàng 1 nửa,
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân Diệu đã làm sống dậy nét quyến rũ, điệu tình tứ, vẻ kì thú và ngon lành ngay trong những cảnh sắc sự vật thiên nhiên quen thuộc:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
...
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Đem đến những cảm nhận tinh vi về thời gian, không gian, làm sống dậy vẻ thơ mộng và cả những tình thái tế nhị thật bất ngờ trong thiên nhiên:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
...
Phải chẳng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Bao trùm lên tất cả là cái nhìn tình tứ về sự vật. Nhờ đó mà từng cảnh sắc đều tình tứ, mọi cảnh tượng đều tràn ngập xuân tình. Cái nhìn ấy đã quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân. Từ những hình sắc cụ thể theo lối đặc tả cận cảnh đến toàn thể thiên nhiên rộng lớn theo lối bao quát toàn cảnh thường hiện ra trong dáng nét của giai nhân, tình nhân tràn trề xuân sắc:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Hỡi xuân hồng , ta muốn cắn vào ngươi!
Đó là những yếu tố cơ bản khiến cho cảnh sắc quanh ta vốn thân quen bình dị mà qua cách cảm nhận của Xuân Diệu, bỗng trở nên mới lạ và thơ mộng, hấp dẫn đến thế.
Tác giả chạy đua với thời gian, ông lo âu đến cuống cuồng về mùa xuân, thời gian sẽ trôi chảy. Dấu chấm đặt giữa dòng thơ như một tiếng nấc lên đột ngột, một sự thức tỉnh trong suy nghĩ. Đây là dấu hiệu đặt trong cảm quan về sự chia phôi, tàn phai, úa rụng. Ở giữa mùa xuân và tuổi trẻ nhưng nhà thơ đã nuối tiếc vẻ đẹp căng tràn ấy. Xuân Diệu không đợi mùa xuân qua đi mới bày tỏ lòng nhớ tiếc mà ông đã vội vàng nuối tiếc ngay khi mùa xuân đang tràn trề sự sống. Tác giả đang ngây ngất với mùa xuân như một vị chúa ở đời thì chợt nhận ra sự ngắn ngủi, mong manh như thứ thủy tinh tuy đẹp lung linh, rực rỡ nhưng lại dễ vỡ:
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Phải là một người yêu sự sống đến tột độ thì nhà thơ mới có tâm trạng bâng khuâng, lo sợ thời gian trôi chảy. Nói đến xuân là nói đến những gì tươi mới, nguyên vẹn, tinh khôi nhất. Nếu bạn đọc có thể bị lôi cuốn theo từng nét vẽ của bức tranh thiên nhiên mùa xuân thì cũng có thể dễ dàng nhận thấy sự tiếc nuối về độ xuân sắc, sự tàn phai của vẻ đẹp trong thơ ông. Dưới con mắt đa tình, ông quan niệm: "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" nhưng cuộc vui nào cũng đến hồi kết thúc nên thi sĩ "không chờ nắng hạ mới hoài xuân". Vẻ đẹp của mùa xuân không tồn tại mãi mãi và bước đi vô tình của thời gian sẽ khiến mọi vật trở nên tàn phai, úa rụng nên Xuân Diệu muốn níu giữ mùa xuân cũng là điều hợp lí. Với vẻ đẹp tươi nguyên, mơn mởn của mùa xuân, nhà thơ đã thể hiện niềm mong muốn đến cháy bỏng của mình. Ông muốn "ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn", "muốn riết mây đưa và gió lượn", "muốn say cánh bướm với tình yêu", "muốn thâu trong một cái hôn nhiều" và muốn "cắn" vào xuân hồng tràn đầy sinh lực.
Nếu mùa xuân không thướt tha, quyến rũ như người thiếu nữ thì có lẽ Xuân Diệu đã không có ước muốn ngăn cản sự chảy trôi vô tình của thời gian.Tác giả không chỉ liệt kê cho bạn đọc những nhân tố làm nên bức tranh xuân sinh động mà ông còn thể hiện được cái hồn của cảnh vật. Mùa xuân - một thế giới thần tiên lạ kì với biết bao nhiêu hương sắc là chốn để Xuân Diệu gửi mình vào đó.
-----Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-----
Tài liệu liên quan
Tư liệu nổi bật tuần
-
Phân tích 9 câu thơ đầu bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm
27/06/2024180 - Xem thêm