Bạn bè (0)
Hoạt động gần đây (20)
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Cơ chế phát sinh claiphento là gì? Cách đây 5 năm
Claiphentơ (Klinefelter) xảy ra là bởi vì có sự xuất hiện của 1 nhiễm sắc thể thừa đã can thiệp và gây ảnh hưởng tới sự phát triển của bào thai xem thêm ....
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Ý nghĩa của thường biến là gì? Cách đây 5 năm
nhờ có những thường biến mà cơ thể phản ứng linh hoạt về kiểu hình, đảm bảo sự thích ứng trước những thay đổi nhất thời hoăc theo chu kỳ của môi trường xem tiếp.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Trình bày sự biến đổi hình thái NST qua chu kì tế bào? Cách đây 5 năm
Cơ thể lớn lên nhờ quá trình phân bào. Vòng đời cùa mỗi tế bào có khả năng phân bào gồm kì trung gian và thời gian phân bào nguyên nhiễm hay gọi tắt là kì nguyên phân (hình 9.1). Sự lặp lại vòng đời này gọi là chu kì tế bào. Quá trình nguyên phân bao gồm 4 kì : kì đầu, kì giữa, kì sau và kì cuối. Kết thúc quá trình rcin bào là sự phân chia chất tế bào.
xem thêm -
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Chứng minh sức hấp dẫn, thuyết phục trong bản Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh. Cách đây 5 năm
Dàn ý sức hấp dẫn và thuyết phục trong bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Mở bài
- Giới thiệu về hoàn cảnh ra. đời của Tuyên ngôn Độc lập.
- Nêu vấn đề: Tuyên ngôn Độc lập có sức hấp dẫn đặc biệt bởi ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học của nó.
2. Thân bài
- Về ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập:
- Là một văn kiện lịch sử quan trọng, Tuyên ngôn Độc lập đã tổng kết một thời kì đau thương nhưng vô cùng anh dũng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.
- Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định được vị thế của dân tộc Việt Nam - một dân tộc nhỏ bé nhưng có lòng yêu nước, ý chí tự cường và tinh thần chiến đấu ngoan cường trước toàn thế giới.
- Tuyên ngôn Độc lập là niềm tự hào, khích lệ đối với toàn thể nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ và các thế hệ mai sau về quyền tự do, độc lập và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ quyền tự do, độc lập ấy.
- Về giá trị văn học: Tuyên ngôn Độc lập là áng vãn nghị luận bất hủ với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn.
- Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những "lời bất hủ" trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, tạo căn cứ pháp lí vững chắc về quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
- Để đập tan những luận điệu của thực dân Pháp về việc Việt Nam là thuộc địa và Pháp có quyền quay trở lại Việt Nam, bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ đanh thép, những bàng chứng không thể chối cãi để tố cáo tội ác xâm lược của thực dân Pháp, khẳng định bản chất phản động, đi ngược lại với chủ trương chống phát xít của thực dân Pháp ở Đông Dương, đồng thời khẳng định vai trò của Việt Minh trong cuộc chiến đấu chống phát xít Nhật.
- Bản tuyên ngôn vang lên với giọng điệu hào sảng, tràn đầy niềm tin, thể hiện ý chí, quyết tâm bảo vệ quyền độc lập, tự do của cả một dân tộc.
3. Kết bài
- Khẳng định tác động lớn lao của bản Tuyên ngôn Độc lập đối với lịch sử Việt Nam thế kỉ XX và vị trí của tác phẩm trong di sản văn học dân tộc.
- Nêu những ấn tượng sâu sắc của bản thân về tác phẩm.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Phân tích giá trị lịch sử và chất chính luận trong văn bản Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh. Cách đây 5 năm
Đề bài: Trình bày giá trị lịch sử và chất chính luận trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
BÀI LÀM
Theo chiều dài bốn ngàn năm của lịch sử dân tộc có nhiều dấu mốc đáng ghi nhớ gắn với sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm. Một trong những mốc lớn ấy là sự kiện Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, nước Việt Nam được khai sinh. Để tuyên bố với nhân dân cả nước và thế giới biết nước Việt Nam từ nay độc lập, Hồ Chi Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập. Một văn kiện đặc biệt vừa mang tính văn học, vừa mang tính lịch sử và chất chính luận.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra một kỉ nguyên mới: Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ. Cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: "Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?. Tức thì một tiếng "có" của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm. "Việt Nam độc lập muôn năml" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hoà làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn: "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy."
Có thể nói: Bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam... Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh. Nếu như Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Bình Ngô đại cáo khẳng định một chân lí lịch sử: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích từ bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ năm 1776: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: "Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung suớng và quyền tự do", và đi tới khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lí tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hô Chí Minh.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỉ qua. Chúng vô cùng xảo quyệt và dã man "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác chồng chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về chính trị và bốn tội ác cực kì dã man về kinh tế của chúng. Năm tội ác lớn về chính trị là tước doạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man, chia để trị; đàn áp và khủng bố; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bẳng rượu cồn và thuốc phiện "để làm cho nòi giống ta suy nhược". Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân "cuồng Minh":"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn 500 năm sau, trong Tuyên ngôn Độc lập, người anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chi Minh viết: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ "chúng" được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể mỉa mai (lập ra nhà tù nhiều hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém giết), cách dùng hình ảnh (bể máu) - tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục. Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho "dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều, cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, v.v... Lên án chính sách sưu thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: "Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng". Hàng trăm thứ thuể vô lí ấy của thực dân Pháp đặt ra, nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê tởm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật. Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm hoạ năm Ất Dậu, 1945: "Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị, đến Bắc kì, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói. Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng. Tác giả châm biếm lên án: "Chúng chẳng những không "bảo hộ" được ta, trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật.". Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy "chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".
Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch sử. Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bố: "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phài từ tay Pháp". Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: "Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế ki mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà". Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam. Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: Thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập.
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực luợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: Viết nhằm mục đích gì? Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết như thế nào? Đối tượng của Tuyên ngôn độc lập không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưụ tái chiếm Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta. Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản Tuyên ngôn Độc lập là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội mà bao hàm nhiều ý nghĩa vạch trần tội ác, như một mũi tên mà bắn trúng hai đích: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân Pháp.
Lời viết ngắn gọn, hàm súc, đẩy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện chính trị: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác và gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng có lúc xuất hiện những hình ảnh cực kì xúc động: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những bể máu. Cách dùng từ ngữ nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác, vừa đanh thép: "thẳng tay chém giết...'', "thoát li hẳn...", "xoá bỏ hết...", "xoá bỏ tất cả...". Văn phong của Bác rất nhuần nhị, uyển chuỵển trong cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ, cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp... tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy ấn tượng: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc, đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!''.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập vừa có giá trị lịch sử to lớn, vừa mang những nét tiêu biểu cho văn chương chính luận của Hồ Chi Minh. Nó vừa kế thừa, phát huy được giá trị của lịch sử vừa mang tính thời đại sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập sẽ còn mãi trong lịch sử dân tộc như dấu ấn khai sinh nước Việt Nam mới, và cũng là áng hùng văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Phân tích giá trị lịch sử của bản Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh. Cách đây 5 năm
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tư do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam.
19/8/1945 chính quyền ở Thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 23/8 tại Huế, trước mười lăm vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 25/7 hơn tám mươi vạn đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài tám mươi năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.
Ngày 2/9/1945 tại quảng ưường Ba Đình. Hà Nội, thay mặt chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.
Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không". Tức thì một tiếng “có" của một triệu con người cùng đáp, vang dậy như sấm.
“Việt Nam độc lập muôn năm" - Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Có thể nói: bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện một cách hùng hồn, khát vọng ý chí và sức mạnh Việt Nam... Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách lập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.
Nếu như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư", Bình Ngô đại cáo khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", thì Tuyên ngôn độc lập lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới.
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776:
"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc". Câu thứ hai rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, và đi tới khẳng định: “Đó là những lẽ không ai chối cãi được". Qua đó, ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, về nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là độc lập dân tộc. Và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, việc trích dẫn còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận tiến bộ trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp.
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đốt với nhân dân ta trong gần một thế kỷ qua. Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man "'lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác khác chồng chất như núi. Đó là năm tội ác ghê tởm về chính trị và bốn tội ác cực kỳ dã man về kinh tế của chúng.
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ, luật pháp dã man, chia để trị; đàn áp và khủng bố"; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc phiện để làm cho nòi giống ta suy nhược. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nói về tội ác của quân “cuồng Minh": "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Hơn năm trăm năm sau, trong Tuyên ngôn độc lập, người hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh viết.“Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi chúng ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ “chúng" đưực nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai "lập ra nhà tù nhiều hơn trường học". Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng “thẳng tay chém giết", cách dùng hình ảnh “bể máu'' – tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.
Bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho “dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều"; cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.v..v.... lên án chính sách sưu thế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng”. Hàng trăm thứ thuế vô lý của thực dân Pháp đặt ra, nhân dân ta đã từng chịu đựng và ghê tởm:
“...Các hạng thuế, các làng tăng mãi
Hết đinh điền rồi lại trâu bò
Thuế diêm, thuế rượu, thuế bò, thuế xe
Thuế sản vật, thuế chè, thuế thuốc
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
Thuế bè tre gỗ, thuế thuyền bán buôn
Thuế đến cả phấn son đường phố
Thuế những anh thuốc lọ gậy mòn
Thuế gò, thuế bãi thuế cồn
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn
Thuế dầu, mật, thuế sơn mọi lối
Thuế gạo rau, thuế muối, thuếbông
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kỳ
Các dạng thuế kể chi cho xiết
Thuế xí kia mới thiệt lạ lùng!
Làm cho thập thất cửu không
Làm cho đau đớn khốn cùng không thôi,.!...
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa thu năm 1940, thực dân Pháp "quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật". Pháp và Nhật đã câu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm Ất Dậu, 1945. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói.
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, “quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng". Tác giả châm biếm lên án: “Chúng chẳng những không bảo hộ được ta, trái lại trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật!". Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa trước khi rút chạy “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
Bằng cách lập luận chặt chẽ. đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gôn và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu “tái chiếm" Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng hồn tuyên bô: "sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp".
Tuyên ngôn độc lập có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Từ nô lệ, nhân dân ta đã giành được độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập". Một chế độ mới, một nhà nước mới ra đời: “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh “công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam". Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Tác giả tự hào nêu cao truyền thông anh hùng bất khuất chống thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập".
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tư do của nhân dân ta, biểu thị quyết tâm và sức mạnh Việt Nam.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Bàn luận về ý kiến đánh giá: "Tuyên ngôn độc lập một văn kiện có trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép..." Cách đây 5 năm
Đề bài: Có ý kiến đánh giá: "Tuyên ngôn độc lập một văn kiện có trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục”. Hãy bàn luận về ý kiến trên.
Bài làm
Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc thường xuất hiện những áng văn bất hủ, đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc Lập của người Mĩ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và Tuyên ngôn Độc lập tự do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2-9- 1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Có ý kiến cho rằng: một văn kiện có trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục”. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả của “bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó. Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước 50 vạn đồng bào. Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Nhưng ta sẽ không hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu không trở lại với không khí chính trị căng thẳng, nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ. Bản Tuyên Ngôn, vì thế đã đóng vai trò hoàn tất một sứ mệnh lịch sử. Không còn nghi ngờ gì nữa, sự ra đời đúng lúc của bản Tuyên ngôn Độc lập đã chặn đứng âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp chống lại ý đồ can thiệp vào Việt Nam các đế quốc khác, mở đầu cho làn sóng giải phóng thuộc địa ở châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao địa vị của dân tộc ta trên trường quốc tế. Bản Tuyên ngôn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, năm năm cướp bóc, giày xéo của phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Với ý nghĩa như vậy bản Tuyên ngôn Độc lập đã thực sự khai sinh ra một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Bên cạnh những giá trị to lớn đã nói ở trên, bản Tuyên ngôn còn là một bản văn chính luận tiêu biểu xuất sắc. Nó đã được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do, độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt Nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn luôn bị sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng hùng văn được kết tinh bởi trí tuệ và tâm huyết Hồ Chí Minh - Người con ưu tú của dân tộc - và bởi tự bản thân tác phẩm - tiếng nói chân lí cùa thời đại. Mọi chân lí đều hết sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp đầu tiên của Bản Tuyến ngôn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại có bố cục ngắn gọn, súc tích như vậy.
Trước hết, là một thông điệp chính trị, bản Tuyên ngôn nhằm hướng tới những mục đích thức thời, quan trọng có tính cấp thiết, bức bách, nước sôi, lửa bỏng. Trong một tình thế như vậy, sự ngắn gọn, mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thông tin nhanh chóng và triệt để. Tất nhiên, không phải sự ngắn gọn nào cũng tạo nên tính chất súc tích, cô đọng và không phải sự cô đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh. Bản Tuyên ngôn dường như chỉ xoáy sâu vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hoàn toàn quyền dính líu tới Việt Nam của thực dân Pháp; thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập đó. Vì những mục tiêu này, các ý tưởng, các kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn, sáng sủa.
Như đã nói ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới. Đây còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù, cho nên, bản Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu bằng việc viện dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của hai cường quốc Pháp và Mĩ, từ đó suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc (bên cạnh quyền con người và quyền công dân) như một lẽ phải không ai chối cãi được. Vậy mà hơn 80 năm, thực dân Pháp đã bất chấp lẽ phải ấy; chúng lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để nô dịch nhân dân ta. Hành động của chúng là sự chà đạp lên chân lí, trái với đạo lí và chính nghĩa, đi ngược lại những lời tuyên ngôn mà Cách mạng Pháp đã đề ra. Không chỉ tố cáo những tội ác của thực dân Pháp, tác giả bản Tuyên ngôn còn vạch trần bộ mặt phản bội của chúng, khẳng định một cách dứt khoát quyền tự do, độc lập chính đáng của dân tộc Việt Nam.
Tất cả những lí lẽ và bằng chứng đưa ra đều được cấu trúc trong một hệ thống lập luận chặt chẽ, đanh thép nhằm chống lại những ngụy thuyết thực dân, những mưu đồ xám lược của các lực lượng đế quốc nhằm giữ vững chính quyền - vấn đề quan trọng nhất đối với vận mệnh dân tộc ta lúc bấy giờ. Điều cần nói là, bản Tuyên ngôn đã không khởi đầu bằng việc nêu lên truyền thống chống ngoại xâm bảo vệ chủ quyền dân tộc từng chói ngời trong sử sách qua các triều đại Đinh, Lí, Trần, Lê... mà xuất phát từ các nguyên tắc do chính các nước tư bản đã nêu ra và thừa nhận, đặc biệt là các nước thuộc phe Đồng minh. Rõ ràng trong lập luận, tác giả bản Tuyên ngôn vừa chứng tỏ sự tôn trọng thành quả văn hóa của nhân loại, vừa ngầm buộc các cường quốc phải tự ngẫm lại mình mà thừa nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Để tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế cùng hàng loạt sự phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muốn, chúng cũng không thể nào chối cãi được. Để đánh tan những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con đen” mà thực dân Pháp đã cố dựa vào như một ngụy thuyết để rắp tâm quay trở lại thống trị đất nước ta, một lần nữa, tác giả vạch rõ: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương đế mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực đân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. "(...) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. (...) Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp."
Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, với sự thấu hiểu tình hình chính trị một cách sâu sắc, bằng những chứng cứ đầy đủ và xác thực, bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo trạng đanh thép lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp. Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục của bản Tuyên ngôn còn là ở sự chính xác và giàu sức biểu cảm của hệ thống ngôn từ, chẳng hạn sau khi viện dẫn hai bản Tuyên ngôn, nhưng không dừng lại ở nội dung hai bản Tuyên ngôn đó mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu...”, “chúng ràng buộc (...), chúng bóc lột (...), chúng cướp (...), chúng giữ độc quyền (...), chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị...”. Khi tuyên bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, bản Tuyên ngôn có những từ vừa chính xác, vừa chọn lọc: “xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ không phải với) nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam...”. Ngoài ra, việc sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc khẳng định các ý tưởng, vừa bảo đảm chính xác và sức mạnh cho lí lẽ vừa gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm, thôi thúc người nghe nhận ra và thừa nhận chân lí. Tất cả những điều đó đã khẳng định trình độ nghệ thuật xuất sắc của tác giả, đưa Tuyên ngôn Độc lập trở thành mẫu mực của thể văn chính luận.
Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn đồng thời là một tác phẩm chính luận xuất sắc mẫu mực. Tuyên ngôn Độc lập - mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do, tạo điều kiện cho mọi thay đổi căn bản của đời sống dân tộc trong đó có văn học.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Phân tích văn bản "Tuyên ngôn độc lập" - Hồ Chí Minh. Cách đây 5 năm
- Chính trị:
+ Không cho nhân dân một chút tự do dân chủ nào.
+ Thi hành những luật pháp dã man.
+ Lập ra 3 chế độ khác nhau để ngăn chặn thống nhất dân tộc.
+ Lập nhà tù nhiều hơn trường học.
+ Thẳng tay chém giết những người yêu nước.
+ Thi hành chính sách ngu dân.
- Kinh tế:
+ Bóc lột nhân dân đến xương tủy
+ Cướp ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
+ Giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng nhập cảng.
+ Đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí.
+ Không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên, bóc lột công nhân một cách vô cùng tàn nhẫn.
- Quân sự:
+ Khi Nhật đến xâm lược, thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng để nhân dân Việt Nam phải chịu hai tầng xiềng xích Pháp và Nhật, gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
+ Thực dân Pháp không bảo hộ nước ta mà trong 5 năm còn hai lần bán nước ta cho Nhật.
+ Thẳng tay khủng bố Việt Minh, đến khi thua chạy còn giết nốt số tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng.
=> Bằng những bằng chứng cụ thể, xác thực, Hồ Chí Minh đã làm hiển hiện bản chất hèn hạ, phản bội và tráo trở của thực dân Pháp.
* Khái quát lại cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta
- Nêu lên một sự thật lịch sử: thực dân Pháp đã bán nước ta cho Nhật. Và từ mùa thu năm 1940 nước ta trở thành thuộc địa của Nhật. Chúng ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải tay Pháp
-> Khẳng định công lao to lớn của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và xoa dịu mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp.
- Tóm tắt lại những thành tựu to lớn của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
+ Khi Nhật đầu hàng đồng minh, nhân dân cả nước đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
+ Đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm, đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ để lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
-> Khẳng định dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Phân tích ý nghĩa của những tuyên bố khẳng định độc lập chủ quyền của Việt Nam trong bản Tuyên ngôn độc lập. Cách đây 5 năm
Phần cuối của bản tuyên ngôn đưa ra những tuyên bố sau để khẳng định độc lập chủ quyền của Việt Nam:
- Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân Việt, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
- Nước Việt Nam có quyền hưởng thụ tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
b. Ý nghĩa:
- Những tuyên bố ở trên cho thấy tác giả đã xóa bỏ mọi quan hệ với Pháp, khẳng định Việt Nam có quyền độc lập, quyền tự do.
- Tự hào về nền độc lập nước nhà một cách mãnh liệt “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
- Thể hiện quyết tâm mạnh mẽ “trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” và lời tuyên thệ “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền tự do, độc lập ấy”.
-
Nguyễn Thị Linh đã trả lời trong câu hỏi: Phân tích tính thuyết phục được thể hiện trong phần mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập. Cách đây 5 năm
Gửi bạn bài mình sưu tầm:
Đề bài: Hãy phân tích tính thuyết phục được thể hiện trong phần mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập.
BÀI LÀM
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn mở đầu được viết rất cao tay: vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nhiệm vụ của phần mở đầu một bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài. Nguyên lí của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây chính là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”. Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thông tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:
Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khóa miệng” bọn đế quốc Pháp, Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta (sự thật lịch sử đã chứng tỏ điều này). Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhận đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Đoạn mở đầu bản Tuvên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791). Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập cùa Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX (lịch sử cũng đã chứng tỏ điều này).
Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.