Phân tích thi pháp văn học trung đại qua Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành
Câu trả lời (1)
-
Xuất hiện vào những năm cuối của thế kỉ XIX Dương phụ hành của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã ghi được những dấu mốc trên tiến trình văn học trung đại Việt Nam, được coi như một sự vượt rào về thi pháp, một báo hiệu về thời cận đại.
Nói đến văn học trung đại là nói đến tính phi ngã và tính quy phạm. Từ trước đến nay chúng ta đều quan niệm tính quy phạm của dòng văn học trung đại là một bức thành kiên cố. Nó đã bó buộc, giam hãm nguồn cảm xúc của thi nhân, không để cho nguồn cảm xúc ấy tuôn trào một cách tự nhiên dù nó là một tình cảm nhân bản rất con người. Rất ít nhà thơ thời kì này nhận thức được đúng đắn những hạn chế đó. Dòng cảm xúc trong con người họ đã bị ức chế, bị dồn nén và bị uốn theo một lối mòn “muôn thuở”. Nhưng đã có những con người không đi theo vết xe của người đi trước, họ đã tìm đến những lối rẽ mới, thể hiện đầy đủ hơn tính người và rõ nét hơn bản ngã của cá nhân. Vì thế khi Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) và Dương phụ hành (Cao Bá Quát) ra đời đã mang đến cho ta những tư tưởng tình cảm mới, cách nhìn mới từ xưa đến nay chưa mấy ai khơi nguồn.
Ngược dòng thời gian trở về với lịch sử của dân tộc dưới chế độ phong kiến, chúng ta nhận thấy có một lớp sương mờ đang bao trùm lên khắp bầu trời và xã hội Việt Nam. Con người ấy, xã hội ấy cứ bình lặng trôi xuôi, không có một sự cựa quậy, phản kháng, khẳng định cá tính. Chế độ phong kiến không công nhận cá nhân, tỏa chiết những tình cảm tự nhiên của con người trong vòng kim cô của lễ giáo và tôn ti trật tự. Nhưng khi thưởng thức cái âm hưởng hùng mạnh trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, chúng ta thấy ông cha ta không phải ai cũng chịu cúi đầu. Trong bài thơ ta thấy nổi cộm lên cá tính của một tâm hồn tự do phóng khoáng, thích nói đến bản thân mình, kể cả những cái riêng nhất, cái mà dòng văn học trung đại không bao giờ đề cập đến. Mở đầu bài thơ Nguyễn Công Trứ đã khẳng định một cách hùng hồn vai trò của mình:
“Vũ trụ nói mạc phi phận sự”
Đâu còn tư tưởng vô vi của Lão - Trang. Lòng nhiệt tình, niềm say mê với công việc và trách nhiệm đã giúp ông ý thức được vai trò của mình trong cuộc đời, trong xã hội. Ở đây ta bắt gặp một hình ảnh của thiên nhiên: đó là vũ trụ - một hình ảnh quen thuộc và chiếm ưu thế trong thơ ca trung đại. Nhưng không gian vũ trụ trong câu thơ này lại không chiếm lĩnh tất cả. Tồn tại song song với nó còn là không gian xã hội - mà ở đây chính là vai trò cá nhân của tác giả. Nguyễn Công Trứ không trở về với không gian tình tại, với mây ngàn bạc nội, núi cao suối vắng, trầm tư sau lũy tre làng hoặc lặng lẽ bên luống cúc, thư trai mà với bản lĩnh và ý thức về trách nhiệm của mình, ông đã hòa mình vào cái náo nức hồ hởi, cái vòng đời đang lăn chuyển trong xã hội. Rõ ràng trong cái thế thừa đã bước đầu có sự cách tân, dọn đường cho một phong cách nghệ thuật mới sinh động nảy nở…
Sau khi thể hiện mình một cách tổng quát nhất, cái “tôi” đã bắt đầu khoa trương về cuộc đời, về những lần thi thố tài năng của mình với một giọng thơ say mê nhiệt huyết. Lời thơ dài ngắn khác nhau, ngắt nhịp theo lời kể và đặc biệt là với cách dùng từ “khí”, Nguyễn Công Trứ đã khắc họa một cách chính xác, đàng hoàng về tài năng của mình. Khi Nguyễn Công Trứ viết: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, ta thấy nảy sinh ra một mâu thuẫn. Bản thân ông tự thấy mình cần phải có phận sự đối với trời đất, có trách nhiệm với cuộc đời. Vậy mà khi làm quan, khi mà ông có điều kiện để thể hiện rõ nhất phận sự của mình thì ông lại cảm thấy bị như bị vào “lồng”. Nguyễn Công Trứ đã gọi việc ra làm quan tựa như một cái “lồng”. Một hình ảnh thật mới mẻ, thật táo bạo. Thời ấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ bởi việc ra làm quan tuy có nhiều ràng buộc song nó vẫn là đối tượng của sự tôn kính, ngưỡng vọng của người đời… “Vào lồng” rồi ông vẫn tiếp tục chơi ngông.
“Gồm thao Xược đã nên tay ngất ngưởng”
Giọng văn hơi khoa trương mà không hề gây khó chịu bởi nhà thơ rất có ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình. Cá tính của nhà thơ còn xuyên suốt khắp bài thơ, nó như một đốm sáng làm cho giá trị của tác phẩm thêm rực rỡ lung linh. Nguyễn Công Trứ là một con người của tự do, một tâm hồn phóng khoáng và ưu hoạt động. Chính vì thế khi bị giam chân vào trong cái “lồng” của xã hội thì cũng là lúc ông có dịp để thể hiện cái “ngất ngưởng” của mình rõ hơn cả. Nhưng chế độ phong kiến hà khắc đã không dung nạp cái thói ngạo nghễ, khinh đời đầy ý thức cá nhân của ông. Song Nguyễn Công Trứ không hề cúi đầu khuất phục mà cái “ngất ngưởng” trong ông lại như có động lực thúc đẩy để phát triển lên tới đỉnh cao của cá tính. Khác hẳn với cái ta chung chung, mang tính chất tập đoàn, Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, biến cái ta thành cái tôi, thành lẽ sống cho bản thân mình.
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
Có lẽ khi ra làm quan, cá tính của Nguyễn Công Trứ phần nào vẫn bị chế độ phong kiến chi phối, lấn át nên bây giờ khi đã thôi làm quan thì cá tính kia mới bộc lộ một cách đầy đủ nhất, mãnh liệt nhất bởi không có gì ràng buộc. Việc cho bò đeo nhạc ngựa thời ấy đã là ghê gớm lắm rồi, vậy mà khi đến nơi cửa phật ông còn mang vài cô “Kiều” mà ông tả là “gót tiên đủng đỉnh”. Mức độ ngang tàng giờ đây đã phát triển lên đỉnh cao và nhà thơ của chúng ta đã quên đi hết thảy những ràng buộc cấm kị của thi pháp trung đại, cái thú vị hành lạc của nhà thơ bắt đầu thể hiện. Ông đã từng nói “cuộc hành lạc chơi đâu là lãi đấy”.
Thi pháp văn học trung đại trong “Bài ca ngất ngưởng” và “Dương phụ hành” Nguyễn Công Trứ đã xé rào thi pháp văn học trung đại lúc nào cũng không biết. Tư tưởng của nhà thơ là một tư tưởng cách tân mang đậm dấu ấn thời đại bởi nó không chỉ là sự cách tân bằng văn hóa mà bằng cả cuộc đời ông đang sống. Sự thoát li với thế lực còn thể hiện ở câu thơ:
“Kia núi nọ phau phau mây trắng…”
Sức chiếm lĩnh của không gian lên cao của thi pháp trung đại không phải là nhạt nhòa trong phong cách thơ của nhà thơ. Lên cao để mà thoát tục, xa lánh bụi trần là một sở thích của thi nhân thời xưa. Nguyễn Công Trứ cũng muốn hòa mình vào thiên nhiên cao rộng để cho lòng thêm thanh thản sáng trong.
Có thế nói cá tính ngông của Nguyễn Công Trứ thể hiện đầy đủ nhất, toàn diện nhất khi ông viết câu thơ:
“Được mất dương dương người tái thượng”
Điển cố một lần nữa trở lại với thơ ông. Rõ ràng sức nặng của thi pháp trung đại vẫn chiếm lĩnh tư tưởng của nhà thơ. Nhưng ta vẫn thấy cái gì đó mới mẻ lớn lao đằng sau cái “dương dương” tự đắc của Nguyễn Công Trứ vậy.
Nguyễn Công Trứ tuy đã có sự ngấp nghé vượt rào thi pháp trung đại nhưng ông vẫn luôn ý thức được cái gì cần phải có và quay trở về với quỹ đạo của cương thường, có khi đến mức tôn thờ:
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Văn học trung đại đã có nhiều trang viết về đạo trung quân. Nguyễn Công Trứ đã đi theo con đường đó để kế thừa và thể hiện cái đạo cao quý trong con người của mình. Rồi sau đó ông lại viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Nhà thơ xưng “ông” với thiên hạ, với cuộc đời, không ngại ngùng dè dặt mà vẫn hiên ngang. Rõ ràng cái “ngất ngưởng” ở đây đã trở thành một hình tượng tự thuật độc đáo, có ý vị hài hước. Nhưng đàng sau nụ cười đó lại là một thái độ, một quan niệm nhân sinh ít nhiều mang màu sắc hiện đại bởi nó đã đề cao vai trò cá nhân với sự khẳng định cá tính, không đi theo con đường chính thống sáo mòn trong đó chỉ có hình ảnh tập đoàn cùng những giáo điều khô khan, còn quyền sống của con người bị che lấp vùi dập.
Nguyễn Công Trứ đã vượt lên trên cái đó với một phong cách nghệ thuật nỗi bật. Ông đã dùng hình tượng phi chính thống, nói nhiều đến cái tôi, bước đầu phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại. Nhìn chung Nguyễn Công Trứ đã vượt xa thời đại của ông rất nhiều.
Nếu chỉ có mình Nguyễn Công Trứ dám vượt rào thi pháp văn học trung đại thì sự cách tân kia cũng chưa phải là đáng kể. Cùng với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát một lần nữa đã làm cho “hàng rào” của thi pháp trung đại bị đẩy lùi, bị lung lay. Nếu như Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đem lại cho ta một tâm trạng hồ hởi, náo nức thì Dương phj hành lại len vào trong hồn ta với một chất tình man mác, tràn đầy tính nhân văn, nhân bản. Bài thơ đã khắng định, đã đề cao những tình cảm riêng tư của con người. Đó là một nguồn cảm hứng rất đổi thân thuộc đối với thi nhân nếu như họa không bị thi pháp văn học trung đại phong tỏa. Đọc bài thơ ta như lạc vào một miền đất mới mà trên đó nảy sinh biết bao tâm tư tình cảm của con người, vẫn là một bài hành - một thể loại phổ biến của thi pháp trung đại cùng với không gian lữ thứ của một chủ thể trữ tình li hương song bài thơ lại được tác giả thổi vào một cái nhìn mới lạ, mang đậm tính nhân văn cao đẹp. Sự cách tân đã bước đầu thế hiện:
“Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau”
Người thiếu phụ phương Tây hiện ra với một cái nhìn trân trọng và trìu mến của tác giả. Lịch sử văn học đã mấy ai dám đưa hình ảnh người phụ nữ vào trong văn thơ táo bạo như Cao Bá Quát, mà lại là hình ảnh người đàn bà phương Tây đầy xa lạ. Ông nói thẳng vào điều mình nhìn thấy, không vòng vo, không còn những ước lệ đặc trưng dành cho người con gái như trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều. Cái đập vào mắt nhà thơ đầu tiên là trang phục màu trắng của người thiếu phụ. Cao Bá Quát đã mở hồn mình ra để cho cái màu trắng tinh khiết trang nhã kia in vào, xâm chiếm lấy con người tác giả. Người đàn bà kia không chỉ cuốn hút nhà thơ bằng trang phục khác xa với người con gái phương Đông mà những hành động cử chỉ của bà ta với chồng đã thực sự làm cho tâm hồn nhà thơ rung động, cảm hứng thơ trỗi dậy mãnh liệt:
“Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu…”
Sự hà khắc của những điều khó khăn trong chế độ phong kiến đã trói buộc tình cảm con người, đã không để nó phát sinh một cách tự nhiên. Tuy vậy hình ảnh đôi vợ chồng kia đối với nhà thơ không hoàn toàn lập dị. Một thoáng ngạc nhiên để rồi thay vào đó là một cái nhìn đầy thiện cảm, không tỏ ý bất động. Đâu còn thấy hình ảnh người phụ nữ Việt Nam e lệ, kín đáo bên người chồng và nguyện là người “nâng khăn sửa túi”, “cử án tu mi” suốt cuộc đời. Những cái đó giờ đây đã trở thành bảo thủ lạc hậu vì nó không đề cao sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, đặc biệt là quan hệ vợ chồng. Câu thơ này chứng tỏ Cao Bá Quát đã có một cái nhìn thật tinh tế và tiến bộ. Những điều mới lạ vẫn tiếp tục dâng trải trước mắt nhà thơ:
“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”
Lòng ta cũng cảm thấy lâng lâng, lan tỏa một niềm vui trước những cử chỉ tự nhiên gần gũi của đôi vợ chồng nọ. Và khi đó chúng ta nhìn về quê hương xứ sở của mình bấy giờ mới cảm thấy sao mảnh đất đó lại xa vời, khắc nghiệt quá vậy. Kể cũng đúng bởi những tình cảm rất con người kia không bao giờ nảy nở trực tiếp, nó đã bị những giáo điều khô khan của chế độ phong kiến chèn ép làm thui chột. Tư tưởng đó đã ảnh hưởng mãnh liệt đến các trang thơ. Tính quy phạm quả là hạn chế. Nhưng đến thời Cao Bá Quát thì một lần nữa nó lại bị phá tung ra và ít nhiều ảnh hưởng đến dòng văn học hiện đại sau này. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có được một phong cách đầy mới mẻ và hấp dẫn mà bởi chính nhà thơ đã phần nào thấm ý thức được cách nhìn của mình, một sự cách tân độc đáo vượt xa thời trung đại. Người con gái phương Đông đang sống trên quê hương tác giả nhút nhát, e dè bao nhiêu thì “thiếu phụ Tây Dương” kia lại bạo dạn tự nhiên bấy nhiêu và điều quan trọng là giữa hai vợ chồng đó phải có một sự bình đẳng gần như tuyệt đối thì người vợ mới có thể nũng nịu đến như vậy. Khả năng cảm nhận của nhà thơ cũng thật nhạy cảm, tinh tế, chính vì vậy nên khi đứng trước những cử chỉ thân mật âu yếm của đôi vợ chồng nọ, nhà thơ của chúng ta không hề là gỗ đá mà tâm hồn đã bắt đầu xao động, từ sự ngạc nhiên đồng cảm đến nỗi niềm tủi thân của người xa quê hương, xa gia đình:
“Biết đâu đến khách biệt li này?”
Chủ thể trữ tình đã hiện ra. Biết bao cảm xúc đang dồn nén giờ đã bật tung ra từng câu chữ, dường như để trách móc mà lại như để tìm kiếm một tâm hồn đồng cảm để giải bày… Cảm nhận của văn học trung đại là cảm nhận trên cái toàn thể, cái ta trữ tình, những câu thơ về tình yêu, về tình vợ chồng thật hiếm. Cao Bá Quát đã vượt qua cản đó để đến với người đọc bằng một cái “tôi” trữ tình đầy tính nhân văn. Tuy Cao Bá Quát thể hiện nỗi nhớ người thân của mình (ở đây chính là người vợ tào khang nơi quê nhà) vẫn chưa dám bộc bạch thẳng mà thể hiện qua yếu tố khách quan, đi từ ngoại cảnh và để ngoại cảnh tác động đến lòng người. Song đọc bài thơ ta thấy thấp thoáng hiện lên một sự chuyển biến về cảm thức tiến bộ của tác giả. Bài thơ thể hiện một nỗi khát khao hạnh phúc của chính bản thân tác giả cũng như của tất cả mọi người. Đây là một chủ nghĩa nhân văn hết sức cao đẹp mà Cao Bá Quát đã đề cập tới.
Bài thơ kết thúc ở đây nhưng những dư âm của nó vẫn âm vang mãi trong lòng người. Nó như một “kì quan” đối với con người lúc bấy giờ, bởi nó đã mở ra một thế giới mới, một thế giới riêng tư, thế giới của tình yêu.
Hơn một thế kỉ đã trôi qua kể từ ngày Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát ra đi nhưng sự nghiệp văn thơ của hai ông vẫn còn, đặc biệt là Bài ca ngất ngưởng và Dương phụ hành đã vượt qua sức cản phá của thời gian. Bởi vì về mặt tư tưởng, nó có ý nghĩa nhân văn, về văn học, nó có ý nghĩa cách tân. Nó đã đem vào văn học một tiếng nói mới, tiếng nói của cá nhân, tiếng nói của cá tính. “Phong cách ấy là con người” (Buýtphông). Nguyễn Công Trứ với cá tính ngang tàng đã tạo nên một phong cách rất riêng trong nghệ thuật. Còn Cao Bá Quát với bút pháp đằm thắm chất nhân văn đã mang đến cho cuộc đời những tình cảm nhân bản cao đẹp, những tình cảm riêng tư thầm kín. Với những phong cách ấy, tính quy phạm của dòng văn học trung đại dần dần bị phá vỡ để thay vào đó là “cái tôi” đòi khẳng định. Nó như báo hiệu sự ra đời của một dòng văn học hoàn thiện hơn, gần người hơn, nền văn học mang trong mình một chủ nghĩa nhân văn mới” Nền văn học hiện đại Việt Nam.
bởi My Le 31/05/2020Like (0) Báo cáo sai phạm
Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!
Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản
Các câu hỏi mới
-
Đọc - hiểu đoạn trích sau:
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ.
(Trích “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Những câu văn trên miêu tả suy nghĩ của nhân vật nào?
Câu 2: Nhân vật đó nói về điều gì?
Câu 3: Văn bản trên đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của phép tu từ đó?
Câu 4: Tìm các từ láy trong văn bản và đặt câu với mỗi từ láy đó
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đọc - hiểu đoạn trích sau:
"Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo:
- Ở đây lẫn lộn.Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".
(Trích “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Đoạn trích trên đây trong tác phẩm nào? của tác giả nào? mô tả cảnh tượng gì ?
Câu 2: Cảnh tượng trên hàm chứa nhiều yếu tố tương phản. Hãy chỉ ra những yếu tố tương phản đó.
Câu 3: Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm nghệ thuật gì qua lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục; ý nghĩa của cái Đẹp với cuộc sống con người cũng được khẳng định như thế nào qua cử chỉ, thái độ và lời nói của quản ngục với Huấn Cao?
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đọc - hiểu văn bản:
“Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ.
Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”.
(Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản?
Câu 2. Những biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong đoạn văn bản? Phân tích hiệu quả nghệ thuật của thủ pháp nghệ thuật đó.
Câu 3. Đoạn văn bản trên đã thực hiện những nét đặc sắc nào của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân?
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
ADMICRO
Viết đoạn văn ngắn khoảng 300 chữ nêu cảm nhận của anh chị về bức tranh thiên nhiên Phố huyện khi chiều tà trong tác phẩm Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam
21/11/2022 | 0 Trả lời
-
Đọc-hiểu đoạn trích sau:
Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại: ”Có lẽ lão bát này ,cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình.Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại, nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên. Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu.
(Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Đoạn văn trên nói về vấn đề gì ?
Câu 2: Xác định những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn và cho biết tác dụng của những biện pháp nghệ thuật đó .
Câu 3: Em hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình về việc chọn nghề của học sinh ,thanh niên ngày nay.
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đọc văn bản sau và cho biết:
“Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ.
Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”.
(Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản?
Câu 2. Những biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng trong đoạn văn bản? Phân tích hiệu quả nghệ thuật của thủ pháp nghệ thuật đó.
Câu 3. Đoạn văn bản trên đã thực hiện những nét đặc sắc nào của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân?
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đọc-hiểu đoạn trích:
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ.
(Trích “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân)
Câu 1: Những câu văn trên miêu tả suy nghĩ của nhân vật nào?
Câu 2: Nhân vật đó nói về điều gì?
Câu 3: Văn bản trên đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của phép tu từ đó?
Câu 4: Tìm các từ láy trong văn bản và đặt câu với mỗi từ láy đó
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm nghệ thuật gì qua lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục; ý nghĩa của cái Đẹp với cuộc sống con người cũng được khẳng định như thế nào qua cử chỉ, thái độ và lời nói của quản ngục với Huấn Cao?
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại: ”Có lẽ lão bát này ,cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình.Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại, nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên. Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu.
(Trích Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân)
Câu 1: Đoạn văn trên nói về vấn đề gì ?
Câu 2: Xác định những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn và cho biết tác dụng của những biện pháp nghệ thuật đó .
Câu 3: Em hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của mình về việc chọn nghề của học sinh ,thanh niên ngày nay.
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đám ma cụ cố tổ trong truyện “Hạnh phúc của một tang gia” được coi là một đám ma gương mẫu cho điều gì?
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Nêu ý nghĩa nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Anh chị có nhận xét gì về xã hội “thượng lưu” thành thị đương thời qua “Hạnh phúc của một tang gia”?
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Chủ đề của tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” là gì?
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Nêu nhận xét về nghệ thuật trào phúng của tác giả trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Vì sao cụ tổ chết đi lại trở thành niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình? Em hãy phân tích những niềm hạnh phúc khác nhau của từng thành viên trong gia đình đó và những người đến đưa đám ma?
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Hãy làm rõ niềm vui của các thành viên trong gia đình khi cụ Cố Tổ qua đời
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Đọc đoạn trích và trả lời các câu hỏi sau:
Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị; Liên không sao hiểu, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.
(Trích "Hai đứa trẻ"- Thạch Lam, Ngữ văn 11, tập 1, NXB giáo dục Việt Nam 2011)
Câu 1:Cho biết văn bản trên nói về điều gì?
Câu 2:Hãy xác định và nêu ý nghĩa tác dụng của biện pháp tu từ trong đoạn một của văn bản.
Câu 3: Cho biết các phương thức biểu đạt trong văn bản và phương thức biểu đạt nào là chủ yếu?
Câu 4 :Giải thích cách sử dụng dấu chấm phẩy ";" trong câu cuối của văn bản.
Câu 5: Nhận xét gì về nét đặc sắc nghệ thuật trong văn bản trên?
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của những câu văn: "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào"
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Bức tranh phố huyện được tác giả thắp lên bằng những nguồn ánh sáng nào? Cảm nhận của anh/chị về các chi tiết miêu tả ánh sáng của những ngọn đèn ở các câu văn in đậm trong đoạn trích.
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Những âm thanh được gợi tả nói lên điều gì về cuộc sống của những người dân nơi phố huyện?
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Vẻ đẹp văn phong Thạch Lam qua đoạn văn trên.
20/11/2022 | 1 Trả lời
-
Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện được tác giả miêu tả qua những chi tiết nào? Ý nghĩa?
20/11/2022 | 2 Trả lời
-
Chỉ ra bút pháp tương phản về âm thanh và ánh sáng của đoàn tàu với âm thanh và ánh sáng của phố huyện lúc chiều tàn?
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Phân tích ngắn gọn hiệu quả của cách sử dụng từ ngữ trong vế câu “thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa”.
21/11/2022 | 1 Trả lời
-
Nhận xét gì về nét đặc sắc nghệ thuật trong văn bản trên?
20/11/2022 | 1 Trả lời