OPTADS360
AANETWORK
AMBIENT
YOMEDIA

Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 65 - Ngữ văn 11 Tập 1 Kết Nối Tri Thức

Banner-Video

Nhằm giúp các em nắm được một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường và trong sáng tác văn học, HỌC247 đã biên soạn và tổng hợp nội dung bài soạn Thực hành tiếng Việt trang 65 dưới đây. Đồng thời, để nắm được nội dung của bài học này, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Thực hành tiếng Việt trang 65. Mời các em cùng tham khảo

ADSENSE/lession_isads=0
QUẢNG CÁO
 
 

 

 
 

1. Tóm tắt nội dung bài học

1.1. Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường

Để phát hiện những dấu hiệu vi phạm các quy tắc ngôn ngữ thông thường, cần phải hiểu rõ các nguyên tắc ngôn của tiếng Việt, có khả năng so sánh và đối chiếu cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau.

1.2. Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ trong sáng tác văn học

Một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường trong sáng tác văn học:

- Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm - “lạ hoá" đối tượng được nói tới.

- Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng miêu tả, thể hiện.

- Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm đưa đến phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề cập.

- Bổ sung chức năng mới cho dấu câu (khi trình bày văn bản trên giấy).

2. Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 65

Câu 1: Chỉ ra nét độc đáo, khác lạ trong kết hợp từ "buồn điệp điệp" ở câu mở đầu bài thơ Tràng giang. (Gợi ý: Tìm những kết hợp từ khác có "điệp điệp” nhưng mang tính phổ biến hơn để so sánh với trường hợp đã nêu).

Lời giải chi tiết:

Từ láy “điệp điệp” vốn được dùng để chỉ những sự vật có số lượng nhiều và nối tiếp nhau như núi trùng trùng điệp điệp → chỉ những ngọn núi nhấp nhô nối tiếp nhau từ dãy núi này đến dãy núi khác. Nhưng ở đây, tác giả sử dụng từ “điệp điệp” không phải để chỉ sự vật mà để chỉ nỗi buồn của nhân vật trữ tình. Theo đó, người đọc có thể hiểu tác giả đang rơi vào một tâm trạng buồn với nỗi buồn kéo dài bất tận. Từ đó giúp người đọc dễ dàng hiểu được tâm lý của nhân vật trữ tình nhờ vào sự kết hợp từ khéo léo để đưa ra một sự thể hiện sâu sắc nhất, đúng nhất và độc đáo nhất về nỗi buồn của nhân vật trữ tình. 

 

Câu 2: Phân tích lí do khiến cụm từ "sâu chót vót" trong bài thơ Tràng giang gây được ấn tượng đặc biệt với người đọc.

Lời giải chi tiết:

“Sâu chót vót” là một trong những từ thể hiện rõ cách kết hợp từ đầy độc đáo, sáng tạo, táo bạo của Huy Cận trong việc làm sáng tỏ tâm tư, tình cảm của mình. Cụm từ này được tác giả sử dụng để miêu tả bầu trời xanh, cao, rộng. Từ “sâu” gợi lên một độ cao, gợi lên cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn hay nó chính là biểu tượng cho vũ trụ bao la, rộng lớn, rợn ngợp; kết hợp với tính từ “chót vót” càng làm tăng thêm sự cao, xa vời vợi, thăm thẳm của bầu trời. Đứng trước khung cảnh tráng lệ, mênh mông ấy, con người càng trở lên nhỏ bé, cô đơn, mơ hồ với nỗi niềm “bâng khuâng” khó tả trước một không gian rộng lớn. Bởi cái ý nghĩa biểu tượng đầy sâu sắc kết hợp với thanh điệu nhịp nhàng, cụm từ “sâu chót vót” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc như một nét nghệ thuật đắt giá của Tràng giang hay chính phong cách thơ độc đáo của Huy Cận. 

 

Câu 3: Hãy nhận diện và phân tích ý nghĩa của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường được thể hiện trong hai câu thơ sau (trích Tràng giang):

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Lời giải chi tiết:

Câu thơ trên được tác giả sử dụng hình thức đảo ngữ đó là từ “lơ thơ” và từ “đâu” lên đầu của mỗi câu thơ. Theo lẽ thường, câu thơ có thể là “Cồn nhỏ lơ thơ gió đìu hiu/ Tiếng làng xa đâu vãn chợ chiều.” nhưng ở đây tác giả đã sử dụng hình thức đảo nghĩa tài tình nhằm nhấn mạnh sự hoang vắng, quạnh quẽ nơi bãi cồn, sự tàn chợ của những phiên chợ chiều, tất cả đều mang theo sự tiếc nuối, ngóng trông. Cồn cát thì trở lên đìu hiu, vắng vẻ với tiếng gió heo hút càng nhấn mạnh sự cô đơn, chán nản, buồn tẻ cho nhân vật trữ tình. Rồi những tiếng mặc cả, tiếng rao bán hàng của những phiên chợ chiều cũng biến mất, thay vào đó cũng là một không gian yên tĩnh, vắng tiếng cười nói của con người… Bởi vậy, hình thức đảo ngữ này không chỉ nhấn mạnh vào sự hiu hắt, quạnh quẽ của cảnh vật mà qua đó tác giả cũng muốn nói lên nỗi buồn thầm kín ẩn sâu trong tâm hồn mình, một nỗi buồn man mác, cô đơn giữa đất trời, vũ trụ bao la rộng lớn của một con người mang trong mình tâm trạng trĩu nặng.

 

Câu 4: Phân tích giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” trên cơ sở liên hệ đến chức năng thông thường của dấu hai chấm trong văn bản.

Lời giải chi tiết:

Trong câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa”, dấu hai chấm ở đây có công dụng giải thích cho sự vật, sự việc ở vế đằng trước. Hình ảnh “cánh chim nhỏ” gợi lên một cánh chim lẻ loi, cô độc giữa bầu trời xanh hay nói cánh chim đó chính là tác giả - một người đang cô đơn, lẻ loi giữa biển cả, vũ trụ mênh mông, rộng lớn. Và từ cánh chim nhỏ đang chao liệng giữa bầu trời, hoàng hôn dần buông xuống làm cho tâm trạng đang buồn lại càng buồn thêm. Vế sau dấu hai chấm như giải thích thêm cho tâm trạng cô đơn, buồn bã của tác giả, như một điểm khởi đầu để giải thích cho nỗi buồn đó ở những câu thơ phía sau. Như vậy, bằng việc sử dụng một hình ảnh hết sức gần gũi, tinh tế, tác giả đã rất dụng tâm trong việc miêu tả tâm trạng của chính mình qua hình ảnh “cánh chim nhỏ”, giúp người đọc hiểu rõ được tâm trạng của một con người đang mang trong mình một nỗi tha hương, một nỗi buồn thương sâu sắc. 

 

Câu 5: Trong bài “Tì bà” của Bích Khê, hai câu thơ cuối được tác giả viết như sau:

“Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi. Thu mênh mông”

(Bích Khê, Tinh huyết, Trọng Miên xuất bản, 1939)

Ở một số bản in vế sau, hai câu thơ trên đã có một biến đổi: 

“Ô hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi! Vàng rơi. Thu mênh mông.

(Thơ Bích Khê, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, 1988)

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, theo bạn, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là gì? Dựa vào bản in của bài thơ năm 1939, hãy làm rõ sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ ở thời điểm này. . 

Lời giải chi tiết:

Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, nguyên nhân của sự biến đổi trên có thể là do tác giả đã phát hiện ra một nét nghĩa mới về câu thơ. 

Theo bản in năm 1939, ở đây tác giả đang muốn nói đến sự trở lại của nỗi buồn trong tác giả, tưởng như vô hình nhưng thực ra nó vẫn tồn tại khiến tác giả thốt ra lời cảm thán “Ô!”. Nỗi buồn đó đang cùng với cây ngô đồng rải xuống những cánh hoa vàng theo gió thu. Phải chăng là “thu mênh mông” hay chính là nỗi buồn mênh mông của tác giả. Câu thơ này khiến chúng ta xúc động, thương cảm đối với sự tài hoa của Bích Khê. 

Nhưng đến bản dịch năm 1988, người dịch đã bỏ dấm chấm hỏi đi và để câu thơ thành “Ô hay buồn vương cây ngô đồng…”. Cách viết như vậy nhằm thể hiện một sự chắc chắn, khẳng định của tác giả. Nếu từ “Ô! Hay…” gợi lên cảm giác về một nỗi buồn còn mơ hồ, không biết là thực hay hư thì đến bản dịch này, người dịch dường như khẳng định nỗi buồn đó chính là của tác giả một nỗi buồn miên man, mênh mông bao trùm lên cảnh vật.

Ngoài ra, để củng cố và nâng cao kiến thức bài học được tốt hơn mời các em xem thêm: 

  • Soạn văn tóm tắt Thực hành tiếng Việt trang 65

3. Hướng dẫn luyện tập

Câu hỏi: Phân tích hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường gây nên tiếng cười bất ngờ trong câu chuyện sau:

Sư cụ xơi thịt cầy vụng ở trong phòng. Chủ tiểu biết, hỏi:

- Bạch cụ, cụ xơi gì trong ấy ạ?

Sư cụ đáp:

- Tao ăn đậu phụ.

Lúc ấy, có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài cổng chùa. Sư cụ hỏi: – Cái gì ngoài cổng thể?

Chú tiểu đáp:

- Bạch cụ! Đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa đấy ạ!

(Truyện cười dân gian)

Lời giải chi tiết:

Truyện gây cười do vi phạm quy tắc hội thoại, cụ thể trong lời nói của chú tiểu vi phạm phương châm về chất. “Đậu phụ là món ăn được chế biến từ đậu tương, được ép thành bánh” (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê). Ta thường thấy có đậu phụ cân, đậu phụ thanh chứ không thấy có đậu phụ làng, đậu phụ chùa và càng không thể có “đậu phụ làng cắn đậu phụ chùa”. Người đọc bật cười vì cách đáp của chú tiểu. Bởi chú tiểu biết chắc sư cụ xơi thịt cầy vụng mà sư cụ lại bảo ăn đậu phụ nên chú tiểu trả lời sư cụ như một sự chấp nhận câu nói của sư cụ. Cả hai nhân vật giao tiếp cùng vi phạm quy tắc hội thoại khi đã trả lời không đúng sự thật – vi phạm phương châm về chất.

4. Hỏi đáp về bài Thực hành tiếng Việt trang 65

Khi có vấn đề khó hiểu về bài soạn này cần giải đáp, các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 

OFF