OPTADS360
ATNETWORK
RANDOM
ON
YOMEDIA
Banner-Video
IN_IMAGE

Phân tích số phận, vẻ đẹp của con người miền núi trước Cách mạng

Qua việc phân tích nhân vật mị và a phủ hãy cho biết cuộc đời số phận vẻ đẹp của con người miền núi trước cách mạng

  bởi Trần Hoàng Mai 16/11/2018
AMBIENT-ADSENSE/lession_isads=0
QUẢNG CÁO
 

Câu trả lời (2)

  • Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đem đến cho văn nghệ sĩ nước ta một cuộc tái sinh nhiệm mầu. Các nhà văn. nhà thơ đã đứng lên dưới ngọn cờ cách mạng, với ý thức công dân sâu sắc, tích cực sáng tác phục vụ xã hội mới. Tô Hoài là một trong những nhà văn hiện thực sớm đi đến với cuộc sống lớn của nhân dân. Trong kháng chiến chống Pháp, ông đã cùng bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc giải phóng đồng bào ở ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoàng Liên Sơn. Trước mắt Tô Hoài bây giờ là một thế giới mới với những phong cảnh mới, con người mới, vấn đề xã hội mới. Ngòi bút của ông vươn ra khỏi làng Nghĩa Đô bé nhỏ để hướng tới miêu tả, tái hiện một vùng đất hết sức phong phú và cũng hết sức kỳ lạ của đất nước: vùng Tây Bắc. Và cũng như nhiều nhà văn, nhà thơ khác, Tô Hoài đã trăn trở “nhận đường" và rèn luyện cho mình một thế giới quan và nhân sinh quan mới, xác định một phương pháp sáng tác mới phù hợp với thời đại. Kết quả của những chuyến đi và niềm trăn trở nhận đường ấy là tác phẩm Truyện Tây Bắc gồm ba truyện Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ. Cùng với tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài đã nhận được giải thưởng hạng nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 - 1955. Có thể nói Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất trong Truyện Tây Bắc vì nó chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo thông qua việc miêu tả cuộc đời và số phận của hai nhân vật trung tâm là Mị và A Phủ.

    Trong Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài kể về cuộc đời đầy gian truân và đau khổ của hai vợ chồng người Mèo là A Phủ và Mị. Họ vốn là những người nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra; Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ, A Phủ vì dám đánh bại con trai nhà thống lý nên cũng phải làm người ở để đền tội với chủ. Trong cảnh ngộ tối tăm ấy, họ đã gặp gỡ, đồng cảm và giúp nhau thoát khỏi nhà Pá Tra tìm đến vùng Phiềng Sa. Tại đây họ đã trở thành vợ chồng. Giữa lúc bọn lính Pháp đến đánh phá và cướp bóc ở Phiềng Sa, cán bộ của Đảng đã tìm đến để giúp đồng bào các dân tộc tự bảo vệ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ gặp A Châu, một cán hộ của Đảng, kết làm anh em rồi thành đội viên du kích. Nhớ lại thời điểm sáng tác Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài viết “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ của tôi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe và cảm tình về những con người và sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở biên giới Tây Bắc của đất nước".

    Qua câu nói đó, chúng tôi đã nhận thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã được nhà văn Tô Hoài xây dựng một cách có ý thức.

    1. Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở việc trình bày chân thực cuộc sống đau thương, tăm tối đầy bi kịch của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến nặng nề và sự bóc lột của thực dân Pháp. Giá trị hiện thực của tác phẩm còn gắn liền với sự tố cáo, vạch trần tội ác của bọn phong kiến (thống lý, thổ ly, lang đạo) ở vùng cao.

    - Hình tượng nhân vật Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập. Cô gái trẻ trung, xinh đẹp như một bông hoa của núi rừng đó bị A Sử cướp về làm vợ. Trong ngôi nhà giống như tù ngục đó, Mị suốt ngày "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", số phận của Mị chẳng khác nào số phận của kiếp ngựa trâu vì giá trị của con người không được xem trọng, con người chỉ như một cái máy để làm việc. Thậm chí, Tô Hoài viết “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Lẽ ra trong cuộc sống bình thường những người con gái như Mị phải được vui chơi, đi dự hội hè, tìm thấy tình yêu và hạnh phúc cho mình. Nhưng ngược lại, đến ngày tết, A Sử lại đi chơi với bạn, còn Mị thì bị trói đứng trong buồng tối.

    - Cùng chung nghịch cảnh với Mị là A Phủ, nhân vật trung tâm thứ hai của truyện. Nếu Mị là tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập thì A Phủ 1ại tượng trưng cho sự sống, sức lao động và lòng khát khao tự do của con người bị kiềm hãm. A Phủ chạy như con ngựa, biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, cày bừa rất giỏi và đi săn bò tót rất thành thạo. Lẽ ra con người đó phải được tự do giữa núi rừng để phát huy sức mạnh của mình. Nhưng chỉ vì A Phủ bất bình phản ứng đánh lại A Sử, kẻ đã phá vỡ cuộc vui ngày tết, mà A Phủ đã bị bắt về làm kẻ nô lệ trong nhà thống lý. Một lần để cho hổ ăn thịt mất một con bò mà A Phủ bị thống lý trói đứng suốt mấy ngày trong góc nhà. Hình tượng A Phủ thể hiện một cuộc sống bị trói buộc, tượng trưng cho sức lao động bị bóc lộ và đè nén.

    Giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ bộc lộ qua việc trình bày chân thực cuộc sống đầy bi kịch của nhân dân miền núi Tây Bắc nói chung, đồng bào dân tộc Mông nói riêng mà còn thể hiện qua việc khắc họa những bộ mặt tàn bạo của cha con thống lý Pá Tra và A Sử, của bọn lý dịch, quan lạc, thống quản. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi khổ của những người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt tàn bạo của chúng không chỉ hiện ra qua những hành động đánh dập dã man đối với kẻ ăn người ở trong nhà mà còn qua những lời nguyền rủa của một hai cá nhân mà còn là lời nguyền rủa của cả một chế độ xã hội. Bao giờ còn chế độ xã hội đó thì vẫn còn những kẻ ác như Pá Tra và những nạn nhân của hắn như Mị và A Phủ. Xã hội phong kiến Việt Nam vốn đã lạc hậu. Nói về nguyên nhân của những nỗi bi kịch và người dân miền núi phải chịu đựng, Tô Hoài cho rằng đứng đằng sau thế lực phong kiến tại chỗ là bóng dáng của quân đội xâm lược từ phương Tây tràn đến. Trong bức tranh hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, hình ảnh giặc Pháp hiện lên như là chỗ dựa, là thế lực mà bọn phong kiến vùng cao sẵn sàng cấu kết để duy trì ách thống trị của chúng. Người dân Tây Bắc chỉ có thể sống được một cuộc đời ấm no, hạnh phúc khi nào chấm dứt được cả hai thế lực trên đây. Vấn đề áp bức giai cấp gắn liền với vấn đề áp bức dân tộc là một nét căn bản tạo nên giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.

    2. Gắn hiền với giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ là giá trị nhân đạo xuất phát từ cái nhìn, tấm lòng, tình yêu thương, nỗi xúc động... của nhà văn Tô Hoài trước số phận của Mị và A Phủ trong truyện ngắn này. Nhà văn bày tỏ sự thông cảm với nỗi đau khổ của người phụ nữ bị gả bán như một thứ hàng hóa. Ớ chỗ nào nhà văn mô tả nỗi đau của Mị, ở chỗ đó ngòi bút của ông như cũng run lên vì xúc động. Tô Hoài viết: “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng". Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “ đợt trước ở nhà thống lý Pá Tra cá một người trói vợ trong nhà ba ngày, rồi đi chơi, khi về đến thì vợ đã chết rồi. Nhớ đến điều đó, Mị sợ quá, cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt". Đọc đến đây ra nhớ lại câu thơ của Nguyễn Du: “Đau đớn thay phận đàn bà".

    Đó là nỗi đau của thân xác. Còn nỗi đau tinh thần? Trong hoàn cảnh bị trói buộc, Mị nghĩ rằng mình đành ngồi trong một nhà tù chật hẹp nhìn qua một lỗ vuông mà trông đợi cho đến bao giờ chết mới thôi. Dù vậy, khát vọng làm người hạnh phúc không bao giờ lụi tàn trong lòng Mị. Nghe tiếng sáo thổi trong rừng, Mị tha thiết nhớ lại những ngày xuân tươi đẹp của mình và tràn trề một lòng ham sống. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không dửng dưng với khát vọng đó của Mị.

    Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ còn có thể tìm thấy qua việc nhà văn tái hiện quá trình thức tỉnh cách mạng của những người bị áp bức. Như trên đã nói, trong tác phẩm này, chủ đề giải phóng dân tộc gắn liền với chủ đề giải phóng giai cấp nông dân và giải phóng phụ nữ. Mị và A Phủ gặp nhau trong một hoàn cảnh thật éo le, họ là những số phận đang đứng bên bờ vực thẳm. Hai nhân vật ấy đã kháng cự lại cái chết, kháng cự lại số phận để giữ lại cuộc sống. Trong bước đường cùng quẫn, vẻ đẹp của Mị lại hiện ra không chỉ bằng khuôn mặt mà cả trong tâm hồn. Điều đó bộc lộ rõ nhất qua thái độ của Mị với A Phủ: một thái độ vị tha, cùng gánh chịu khổ đau. Tình yêu của họ đã đến từ việc chia sẻ số phận chung đó. Chính Tô Hoài cũng nhận xét: “Cái biểu hiện cởi trói cho A Phủ chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, những khoảnh khắc có ý nghĩa quyết định và tồn tại đời đời". Mị cởi trói cho A Phủ rồi tìm đến khu du kích của những làng Mông hẻo lánh vùng Phiềng Sa. Được A Châu giác ngộ, họ tham gia đội du kích chống Pháp, trở thành những người tự tin vào sức mạnh của chính mình. Vợ chồng A Phủ đã từ đấu tranh tự phát vươn đến đấu tranh tự giác, từ những phản ứng có tính chất bản năng, đến sự phản kháng có ý thức, nhất là khi nhận ra được nguyên nhân đau khổ của mình và lòng dạ của kẻ thù. Có thể nói, qua hình tượng Mị và A Phủ, Tô Hoài đã xây dựng được những nhân vật có tính cách biến đổi theo quá trình của cách mạng.

    Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ là một bước tiến trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến, đồng thời cũng là một bước tiến trong việc thể hiện chủ nghĩa nhân đạo theo nhân sinh quan cách mạng. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó được hòa quyện trong một chất thơ trong sáng, màu sắc dân tộc đậm đà và văn phong giàu tính tạo hình. Với Vợ chồng A Phủ nói riêng, Truyện Tây Bắc nói chung, Tô Hoài đã góp phần đổi mới đề tài miền núi thực sự bước vào văn học với những hình ảnh phong phú, tươi đẹp và chân thực. Vợ chồng A Phủ tiên báo những thành tựu tương lai trong sáng tác đề tài, miền núi của một lớp nhà văn sung sức xuất hiện sau Cách mạng tháng Tám như Nguyên Ngọc, Nông Quốc Chấn, Ma Văn Kháng, Vi Hồng...



      bởi Thất CA 16/11/2018
    Like (0) Báo cáo sai phạm
  • Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại tên tuổi cũng như dấu ấn văn xuôi của nhà văn Tô Hoài.

    “Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lí, phải sống một cuộc sống không giống con người. ở đó, Mị không chỉ bị giam cầm về thể xác mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn Tô Hoài trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi. Dưới ngòi bút của Tô Hoài gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.

    Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược về quá khứ Tô Hoài tạo được những dấu ấn cá nhân riêng qua cách kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng yêu đời và tràn đầy sự sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt cuộc đời của mình. Mị trở thành nỗi niềm ao ước của nhiều trai bản trong làng. Thế nhưng cuộc đời lại xô đẩy Mị, trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mẹ trả món nợ truyền kiếp mà Mị bỗng dưng trở thành dâu nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ Mị còn bị ràng buộc cả về những tập tục hôn nhân cổ hủ. Chồng chất những đau khổ cho cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống do mình định đoạt. Chỉ đến đây thôi người ta đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lốt sức lực, tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu số phận người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc một cuộc sống chồng chất những đau thương, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu. 

    Khi sống cuộc sống làm dâu trong nhà thống lí Mị phải chịu những đau khổ về thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, Mị phải làm việc suốt ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị cột chặt trong vòng vây của công việc. Dưới ngòi bút kể của nhà văn Tô Hoài Mị hiện lên như một công cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong nhà thống lí. Để rồi đã hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng con trâu con ngựa. Cuộc sống của Mị không giống như cuộc sống của con người, Mị đang dần bị vật hóa. Không chỉ vậy Mị còn bị A Sử- chồng của mình đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói đứng vào cột. Tô Hoài đứng dưới vị trí là một người ngoài cuộc như quay lại những thước phim mà ông ti mỉ thu được. Tô Hoài miêu tả tỉ mỉ những hành động tàn nhẫn của A Sử lại càng lột tả hết được bản chất tàn bạo, phi nhân tính của giai cấp thống trị mà A Sử là một đại diện tiêu biểu hơn bao giờ hết. Do vậy, qua đây mà ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo gay gắt. Thêm nữa, cuộc sống của Mị còn bị trói buộc và đày đọa cả về mặt tinh thần. Mị bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, mất đi ý niệm về thời gian, bị tước đi tất cả quyền làm người, quyền được sống, được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Mị đã hoàn toàn bị vật hóa, bị khống chế bởi thế lực và sức mạnh của thần quyền. Đến đây thôi, hình ảnh Mị hiện lên chồng chất những đau thương và bi kịch mà qua đó Mị là một hiện thân cho người phụ nữ miền núi, người dân lao động dưới ách thống trị của bọn lãnh chúa.

    Tiếp đến trong đêm tình mùa xuân cũng là thời khắc sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy. Âm thanh tiếng sáo gọi dậy khát khao yêu đương trong Mị bấy lâu. Nó dậy tiếng lòng, tiếng hát từ trong sâu thẳm Mị. Để rồi cũng gọi dậy khát khao yêu đương, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống con người bên trong Mị. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm, lách sâu ngòi bút của mình vào đời sống tâm hồn miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống từng ngụm rượu” cho đến sự thay đổi trong tâm trạng của Mị để thấy rằng con người kia đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt lên số phận của chính mình.

    Sau đêm tình mùa xuân nổi loạn không thành, Mị tiếp tục trở về câm lặng như xưa, tiếp tục công việc khổ sai làm tê liệt ý thức của con người, đánh đập, hành hạ làm tê liệt ý thức phẩm giá, cầm tù làm tê liệt những nhu cầu sống cơ bản của con người và bóng ma thần quyền đã tiêu diệt đi ý thức phản kháng của con người. Và chính điều đó lại là nghị lực cho Mị trong đêm đông cứu A Phủ, thoát khỏi cuộc sống mà Mị và A Phủ không được sống làm con người. Những thay đổi trong tính cách và tâm lý của Mị đều được nhà văn Tô Hoài làm rõ tạo nên những bất ngờ cho người đọc. Miêu tả sức sống tiềm tàng trong đoạn văn Mị cứu A Phủ cho thấy hiện thân của sức sống tiềm tàng của nhân dân lao động miền núi phía bắc. Nhà văn không chỉ miêu tả đồng cảm số phận nhân vật mà còn như hé mở cho họ một lối giải thoát từ đau khổ, đáng thương đến tự do và làm chủ cuộc sống của mình. Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, cách mạng giúp con người được làm chủ cuộc sống của mình.

      bởi Love Linkin'Park 09/07/2019
    Like (0) Báo cáo sai phạm

Nếu bạn hỏi, bạn chỉ thu về một câu trả lời.
Nhưng khi bạn suy nghĩ trả lời, bạn sẽ thu về gấp bội!

Lưu ý: Các trường hợp cố tình spam câu trả lời hoặc bị báo xấu trên 5 lần sẽ bị khóa tài khoản

Gửi câu trả lời Hủy
 
 

Các câu hỏi mới

NONE
OFF